Khi tôi mới là học sinh trung học, Tổng Giám mục giáo phận Kraków, Đức cha Adam Stefan Sapieha đến thăm giáo xứ Wadowice của chúng tôi. Linh mục dạy giáo lý, Cha Edward Zacher đã chọn tôi đọc diễn văn chúc mừng Đức Tổng Giám mục. Đó là lần đầu tiên tôi có cơ hội hiện diện trước mặt một nhân vật được mọi người kính trọng. Tôi cũng được biết; sau bài diễn từ, Đức Tổng Giám mục hỏi cha dạy giáo lý của tôi rằng: cậu học sinh này sẽ theo học gì, sau khi tốt nghiệp trung học. Cha Zacher trả lời: "Cậu ấy sẽ học ngôn ngữ và văn chương Ba Lan." Đức Tổng Giám mục hình như nói thêm: "Thật đáng tiếc, đó không phải là môn thần học."
Trong thời kỳ đó, ơn gọi làm linh mục của tôi chưa chín mùi, dầu cho nhiều người chung quanh nghĩ tôi nên vào chủng viện. Có lẽ một số người trong họ suy nghĩ, nếu một người trẻ với đầy khuynh hướng tôn giáo rõ ràng như thế mà không vào chủng viện, chắc hẳn đó là dấu hiệu cậu theo đuổi những tình yêu hoặc những sở thích nào khác. Thật vậy, tôi quen biết nhiều bạn gái cùng trường và khi tôi tham gia vào câu lạc bộ kịch nghệ, tôi đã có nhiều cơ hội kết thân với những người trẻ khác. Nhưng đó không phải là vấn đề nói ở đây. Vào thời gian đó, tôi hoàn toàn say mê văn chương, nhất là ngành bi kịch và kịch nghệ. Tôi đã được giới thiệu vào kịch trường nhờ Mieczysław Kotlarczyk, một giáo sư dạy tiếng Ba Lan lớn hơn tôi mấy tuổi. Ông thực là một người tiên phong trong bộ môn kịch nghệ tài tử và đã nuôi nhiều tham vọng dàn dựng một ban kịch giá trị.
Nhưng bây giờ, chúng ta trở lại với ngày mồng 1 tháng 9 năm 1939. Thế chiến bùng nổ đã thay đổi tận gốc dòng đời của tôi. (…) công việc giảng dạy chỉ kéo dài tới ngày mồng 6 tháng 11 năm 1939. Vào ngày đó, chính quyền Đức Quốc Xã đã tập trung tất cả các giáo sư trong phòng họp và kết thúc bằng việc đầy ải các học giả nổi tiếng vào trại tập trung Sachsenhausen. Vào giai đoạn này tôi dốc toàn lực theo đuổi ngôn ngữ học và văn chương Ba Lan. (…) Mùa thu năm 1940 tôi bắt đầu làm công nhân tại mỏ đá thuộc xưởng hóa chất ở Solvay. (…) Quản lý của mỏ đá là những người Ba Lan, họ tìm cách miễn cho bọn sinh viên như tôi khỏi những lao động cực nhọc. Trường hợp của tôi, họ cho tôi làm phụ tá cho nhân viên nổ mìn đá: tên ông là Fraciszek Łabuś. Tôi muốn nhắc đến ông vì có lần ông nói với tôi: "Karol ơi, các anh nên làm linh mục. Các anh có giọng hát thật hay, và các anh sẽ làm được điều đó tốt đẹp…Ông nói điều đó với tất cả đơn sơ tâm thành (…)”.
Trong thời gian đó tôi vẫn giữ liên lạc với ban kịch thơ do Mieczysław Kotlarczyk đã thành lập và tiếp tục điều khiển trong bí mật. Ban đầu khi dấn thân vào kịch trường tôi được Kotlarczyk và vợ ông là Sofia giúp đỡ qua việc họ ở trọ trong nhà tôi. Họ đã tìm cách di động từ Wadowice tới Kraków nằm trong lãnh thổ của viên „Tướng Cầm quyền”. Chúng tôi cùng chung sống trong một nhà. Tôi làm việc như một nhân công. Lúc đầu ông lái xe điện và sau đó làm nhân viên văn phòng. Cùng ở chung một nhà, không những chúng tôi tiếp tục đàm đạo với nhau về kịch nghệ, nhưng cũng tìm cách diễn xuất thực sự một đồi lần. Đúng đây là hình thức một ban kịch thơ. Thật giản dị vô cùng. Phong cảnh và trang hoàng giảm thiểu tối đa, tất cả cố công của chúng tôi tập trung chính yếu vào diễn tả các lời thơ.
Chúng tôi trình diễn trước một nhóm nhỏ những người quen biết và trước những khách mời có sở thích đặc biệt về văn học, được coi như những "người nhập cuộc." Điều chính yếu là phải giữ bí mật những trình diễn kịch nghệ này; nếu không, chúng tôi sẽ bị các lực lượng chiếm đóng trừng trị đích đáng, có khi bị đưa vào các trại tập trung. Tôi phải nhìn nhận rằng toàn bộ những kinh nghiệm kịch trường này đã để lại ấn tượng thâm sâu nơi tôi, cho dầu vào một lúc nào đó tôi đã nhận ra đó không phải là ơn gọi thực sự của mình.
Mùa thu năm 1942, tôi quyết định dứt khoát vào chủng viện Cracow được điều hành một cách lén lút. Cha Bề Trên Jan Piwowarczyk nhận tôi gia nhập. Công việc này phải được giữ thật bí mật, ngay cả đối với các người thân nhất. Tôi bắt đầu theo học Phân khoa Thần học thuộc đại học Jagellon, cũng được điều hành bí mật, trong lúc tôi vẫn tiếp tục làm việc như một công nhân tại Solvay. Trong thời kỳ bị chiếm đóng, Đức Tổng Giám mục thiết lập chủng viện bí mật ngay tại chỗ ngài ở. Bất cứ lúc nào, với công việc này, các bề trên và chủng sinh có thể bị chính quyền Đức Quốc Xã đàn áp nghiêm khắc. Tôi bắt đầu cư ngụ ngay trong chủng viện bất thường này với vị Giáo chủ đáng kính vào tháng 9 năm 1944 và tôi có thể ở đó với các đồng môn cho tới ngày 18 tháng giêng năm 1945, ngày - đúng hơn là đêm - giải phóng.(…)
Những năm được đào tạo tại chủng viện qua đi như thế đó. Hai năm đầu tiên miệt mài học triết học. Tôi đã tốt nghiệp trong bí mật, trong khi làm việc như một công nhân. Hai năm sau, 1944 và 1945 tôi gia tăng nỗ lực và thời giờ tại Đại học Jagellon, dầu cho chương trình học còn rất khiếm khuyết trong năm đó theo sau chiến tranh. Tuy nhiên, niên khoá 1945-1946 (…) Vào đầu niên khóa thứ năm, Đức Tổng Giám mục đã quyết định gởi tôi đi Rôma để hoàn tất học trình của tôi. Và nhờ vậy, tôi đã được thụ phong linh mục sớm hơn các đồng bạn vào ngày mồng một tháng mười một, năm 1946.
Việc chuẩn bị tôi cho thiên chức linh mục tại chủng viện, theo một ý nghĩa nào đó, đã đến sau việc gia đình chuẩn bị cho tôi, nhờ đời sống và gương sáng của song thân tôi. Trước tiên, tôi phải biết ơn cha tôi góa vợ lúc ngài còn trẻ. Tôi chưa được Rước Lễ Lần Đầu thì đã mất mẹ: khi ấy tôi mới lên chín tuổi. Do đó tôi chưa ý thức được rõ ràng những gì mẹ tôi đã đóng góp cho công việc rèn luyện đời sống đạo của tôi, nhưng chắc chắn phải lớn lao. Sau khi mẹ tôi chết, rồi tiếp theo đó người anh cả cũng chết theo, và như vậy tôi sống đơn côi với cha tôi, một người có lòng đạo đức thâm sâu. Hàng ngày tôi có thể quan sát thấy lối sống khắc kỷ của ngài. Trước đây ngài theo binh nghiệp, và sau khi mẹ tôi qua đời, cuộc sống của ngài trở thành lời cầu nguyện liên lỉ. Thỉnh thoảng thức giấc nửa đêm, tôi nhìn thấy ngài vẫn quỳ gối, như tôi thường thấy ngài quỳ trong nhà thờ. Chúng tôi không bao giờ nói về ơn gọi linh mục, nhưng gương sáng của ngài chính là chủng viện đầu tiên, một loại chủng viện tại gia.(…)
Sau những năm đầu ấy, hầm đá và xưởng lọc nước trong xưởng hóa chất tại Borek Falecky trở thành chủng viện của tôi; đó không chỉ là một 'trường thử' như tại Wadowice. Với tôi, tại thời điểm này, nhà máy đã thực sự là một chủng viện, dẫu là một chủng viện bí mật. Tôi bắt đầu làm việc tại hầm đá vào tháng chín năm 1940; một năm sau tôi qua xưởng lọc nước. Đó là những năm dẫn đưa quyết định cuối cùng của tôi đến chỗ chín mùi. Mùa thu 1942, tôi bắt đầu theo học tại chủng viện chui như một sinh viên văn khoa cũ, trong lúc vẫn là một công nhân tại Solvay. Khi ấy tôi chưa nhận ra được tầm quan trọng của những kinh nghiệm này. Chỉ sau này, khi là linh mục theo học tại Roma, các đồng môn tại Đại học Bỉ đã giúp tôi ý thức về vấn đề của các linh mục thợ thuyền và Phong trào Thanh Lao Công (JOC), lúc đó tôi mới nhận ra tầm quan trọng của những tiếp xúc với thế giới lao động mà Giáo hội và các linh mục Phương Tây phải đương đầu. Giao tiếp này đã ghi khắc sâu kinh nghiệm vào cuộc đời tôi.
Thực sự, kinh nghiệm của tôi không phải là kinh nghiệm của một "linh mục thợ thuyền" nhưng của "chủng sinh thợ thuyền". Bằng đôi tay lao động, tôi đã hiểu rất rõ ý nghĩa của lao động thể xác. Hàng ngày tôi sinh sống với những người lam lũ nặng nhọc. Tôi đã đến để hiểu được những hoàn cảnh sống của họ, gia đình họ, những quan tâm của họ, những giá trị nhân linh nơi họ và cả tư cách của họ nữa. Đích thân tôi đã cảm nghiệm được những tấm lòng hào hiệp của họ. Họ biết tôi là một sinh viên và họ đều biết rằng khi hoàn cảnh cho phép, tôi sẽ trở lại công việc học hành. Không bao giờ tôi gặp thù nghịch nơi họ về mục đích này. Tôi không làm họ bực bội khi mang theo sách đi lao động. Họ thường nói, "Chúng tôi canh chừng cho đó: cứ tiếp tục đọc sách đi!" Chuyện này đặc biệt xẩy ra vào những ca ban đêm. Họ thường nói: "Cậu đi kiếm chỗ nghỉ đi, chúng tôi coi chừng cho!"
Tôi kết thân với các thợ thuyền. Đôi khi họ mời tôi về thăm nhà họ. Sau này khi đã làm linh mục và giám mục, tôi rửa tội cho con cháu họ, làm đám cưới cho các con cháu họ và chủ tế những đám tang của họ nữa. Tôi cũng đã có thể quan sát được lòng đạo đức thâm sâu đầy trầm lặng của họ và sự hiểu biết sâu rộng của họ về cuộc sống. Những giao tiếp này vẫn tiếp tục rất thân tình với tôi, cả sau khi cuộc chiếm đóng của Đức Quốc Xã đã chấm dứt, cho đến ngày tôi được chọn làm Giám Mục Roma. Một vài người trong họ vẫn liên lạc thư từ với tôi.
Tôi kết thân với các thợ thuyền. Đôi khi họ mời tôi về thăm nhà họ. Sau này khi đã làm linh mục và giám mục, tôi rửa tội cho con cháu họ, làm đám cưới cho các con cháu họ và chủ tế những đám tang của họ nữa. Tôi cũng đã có thể quan sát được lòng đạo đức thâm sâu đầy trầm lặng của họ và sự hiểu biết sâu rộng của họ về cuộc sống. Những giao tiếp này vẫn tiếp tục rất thân tình với tôi, cả sau khi cuộc chiếm đóng của Đức Quốc Xã đã chấm dứt, cho đến ngày tôi được chọn làm Giám Mục Roma. Một vài người trong họ vẫn liên lạc thư từ với tôi.
Tôi phải lùi trở lại thời gian trước khi vào chủng viện. Tôi không thể không nhắc tới một địa danh đặc biệt và một nhân vật tại đó, người mà tôi đã học hỏi rất nhiều trong thời kỳ đó. Địa danh ấy chính là giáo xứ của tôi được dâng hiến cho Thánh Stanislaus Kostka, tại Dębniki, trong Tổng Giáo phận Kraków. Các cha dòng Salêsiêng coi sóc giáo xứ này và vào một ngày đen tối, các ngài bị Đức Quốc Xã lùa vào trại tập trung. Chỉ còn lại cha xứ già cả và vị giám tỉnh. Tất cả những linh mục khác đều bị giam giữ tại Dachau. Tôi vẫn tin rằng sự hiện diện của các linh mục Dòng Salêsiêng đóng một vai trò quan trọng trong công việc đào tạo ơn gọi cho tôi.
Trong giáo xứ có một nhân vật nổi bật: tôi muốn nói tới Jan Tyranowski. Nghề nghiệp của ông là thư ký, nhưng ông đã chọn làm việc cho tiệm may của cha ông. Ông nói làm việc như người thợ may dễ giúp ông phát triển đời sống nội tâm. Ông đặc biệt có đời sống nội tâm thâm trầm. Các cha Dòng Salêsiêng thật can đảm khởi động công việc giữa giới trẻ vào giai đoạn khó khăn này, khi giao cho ông trọng trách thiết lập một mạng lưới giao tiếp với giới trẻ qua phương thức "Chuỗi Mân Côi Sống". Lúc điều hành công việc này, Jan Tyranowski không tổ chức đơn độc một mình; ông cũng quan tâm tới việc phải đào tạo tâm linh cho những người trẻ ông tiếp xúc. Nhờ đó tôi đã học được những phương pháp căn bản tự đào tạo mình mà sau này được xác quyết và khai triển trong chương trình đào tạo chủng sinh. Việc đào luyện cuộc sống tâm linh của Tyranowski dựa trên các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá và Mẹ Têrêsa Avila. Tyranowski đã giúp tôi đọc các tác phẩm này, một việc làm được coi như khác thường với lứa tuổi của tôi.
Đây là điểm giúp tôi quan tâm tới linh đạo Dòng Kín. Tại Kraków, trên đường phố Rakowicka có tu viện của các cha Dòng Camêlô cải cách. Tôi đã đến đây nhiều lần và trải qua một tuần tĩnh tâm với các ngài, dưới sự hướng dẫn của cha Leonard thuộc Dòng Đức Mẹ Sầu Bi. Có một thời gian tôi cũng có ý nghĩ gia nhập Dòng Camêlô. Những phân vân của tôi đã được Đức Hồng y Tổng Giám mục Sapieha giúp giải quyết, khi ngài nói một câu thật ngắn gọn: "Trước tiên con phải hoàn tất những gì con đã khởi sự." Và đó là tất cả những gì đã tiếp diễn.
Trong những năm đó, cha linh hướng và giải tội của tôi là linh mục Kazimierz Figlewicz. Lần đầu tiên tôi gặp ngài lúc ấy tôi theo học năm đầu tại trung học ở Wadowice. Cha Figlewicz là cha phó của giáo xứ Wadowice, dậy giáo lý cho chúng tôi. Nhờ ngài, tôi gần gũi với giáo xứ hơn và trở thành chú giúp lễ và những tay tổ chức nhóm giúp lễ. Khi ngài dời Wadowice về phục vụ tại Vương Cung Thánh Đường Kraków, nằm tại vùng cổ Lâu đài Hoàng gia Wawel, tôi vẫn tiếp tục liên lạc với ngài. Tôi còn nhớ vào năm thứ năm trung học, ngài đã mời tôi tới Kraków tham dự Tuần Tam Nhật Thánh, bắt đầu với "Kinh Những Bóng Tối" vào buổi chiều Thứ Tư Tuần Thánh. Kinh nghiệm này đã gây những ấn tượng thâm sâu nơi tôi. Sau khi tốt nghiệp, ba tôi và tôi dời về Kraków. Khi ấy tôi gần gũi với linh mục Figlewixz hơn; ngài là linh mục phó xứ Vương Cung Thánh Đường. Tôi thường tới xưng tội và thăm ngài trong thời kỳ Đức Quốc Xã chiếm đóng.
Không bao giờ tôi quên ngày mồng một tháng chín năm 1939. Đó là ngày Thứ Sáu Đầu Tháng. Tôi tới Wawel xưng tội. Vương Cung Thánh Đường hoàn toàn trống vắng. Có lẽ đó là lần cuối cùng tôi có thể bước vào nhà thờ một cách tự do. Sau này nhà thờ bị đóng cửa và Lâu Đài Hoàng Gia tại Wawel trở thành Tổng hành dinh của vị tướng chỉ huy trong chính phủ Đức Quốc Xã, tướng Hans Frank. Cha Figlewicz là linh mục duy nhất được cử hành Thánh lễ hai lần một tuần trong Vương Cung Thánh Đường đóng cửa và dưới sự canh chừng của cảnh sát Đức. Vào những thời buổi khó khăn ấy, thật rõ ràng tất cả đều mang một ý nghĩa với ngài - Vương Cung Thánh Đường, lăng tẩm, bàn thờ Thánh Stanislaus, một Giám mục Tử Đạo. Cho tới khi qua đời, cha Figlewicz vẫn là người canh giữ trung thành linh địa đặc biệt ấy của Giáo hội và Quốc gia; ngài đã truyền đạt nơi tôi lòng mộ mến đặc biệt đối với Vương Cung Thánh Đường tại Wawel, nơi mà một ngày nào đó đã trở thành Vương Cung Thánh Đường Tòa Giám mục của tôi.
Vào ngày mồng một năm 1946, tôi được thụ phong linh mục. Ngày hôm sau, lễ mở tay, tôi cử hành tại hầm mộ Thánh Leonard trong Vương Cung Thánh Đường. Cha Figlewicz đứng bên cạnh và hướng dẫn tôi. Vị linh mục khả kính này giờ đây đã an giấc ngàn thu cách đây vài năm. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể trả công cho ngài về tất cả những công trạng ngài đã trợ giúp tôi.
Thật tự nhiên, khi đề cập đến nguồn gốc ơn gọi linh mục của tôi, tôi không thể bỏ qua dòng lịch sử Thánh Mẫu. Tôi đã học được những truyền thống tôn sùng Mẹ Thiên Chúa nơi gia đình và nơi họ đạo của tôi tại Wadowice. Tôi còn nhớ, trong nhà thờ họ đạo, một bên nguyện đường được dành tôn kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Vào các buổi sáng, học sinh trung học đến viếng Đức Mẹ trước giờ học. Buổi chiều, sau giờ học, nhiều học sinh tới đó cầu nguyện với Mẹ Đồng Trinh.
Cũng thế, trên một đỉnh đồi ở Wadowice, Dòng Khổ Tu Camêlô đã được thành lập từ thời Thánh Raphael Kalinowski. Người dân từ Wadowice leo lên đây đông đảo và nhờ vậy việc tôn sùng đeo Dây Đức Bà Núi Camêlô trở thành phổ thông. Tôi cũng nhận được Dây Đức Bà và tôi nghĩ lúc đó mới lên mười và tôi còn đeo tới ngày nay. Các tín hữu cũng còn đến đây xưng tội. Và như vậy, cả tại giáo xứ và tại thánh đường của dòng khổ tu Camêlô, lòng sùng kính Mẹ Maria của tôi đã được hình thành ngay từ những năm thơ ấu, rồi niên thiếu và qua những năm trung học.
Khi lớn lên ở Kraków, tại Dębniki, tôi gia nhập nhóm "Chuỗi kinh Mân Côi Sống" trong giáo xứ của các cha dòng Salêsiêng. Nơi đó lòng tôn kính thật đặc biệt với Mẹ Maria, Đấng Phù Trợ các Kitô hữu. Tại Dębniki, vào thời điểm ơn gọi linh mục của tôi triển nở dưới ảnh hưởng của Jan Tyranowski, tôi nhớ có một thay đổi trong kiến thức về lòng tôn sùng Mẹ Thiên Chúa. Tôi đã xác tín rằng Mẹ Maria dẫn dắt chúng ta tới Chúa Kitô, nhưng vào thời điểm này, tôi cũng bắt đầu nhận ra Chúa Kitô dẫn dắt chúng ta tới Mẹ Ngài. Ở một điểm nào đó, tôi bắt đầu đặt câu hỏi về lòng tôn sùng Mẹ Maria khi tin rằng, nếu lòng tôn sùng đó mãnh liệt quá, chắc hẳn sẽ phương hại đến việc ưu tiên tôn thờ Chúa Kitô. Lúc đó, tôi đã dựa rất nhiều vào cuốn sách của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort mang tựa đề "Luận án về sùng kính Đức Trinh Nữ." Nơi đây tôi đã tìm được các câu trả lời. Phải, Mẹ Maria dẫn đưa chúng ta gần gũi với Chúa Kitô hơn; Mẹ dìu dắt chúng ta tới Chúa, miễn là chúng ta sống huyền nhiệm của ngài trong Chúa Kitô. Luận án này của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort có phần gây ra bối rối, qua lối hành văn hoa mỹ và kỳ dị, nhưng người ta không thể chối cãi được những chân lý thần học chính yếu trong đó. Tác giả là một nhà thần học lừng danh. Những tư tưởng Thánh Mẫu học của ngài đã đâm rễ sâu từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và chân lý Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa.
Rồi tôi mới hiểu lý do tại sao Giáo hội đọc kinh Truyền Tin (Angelus) ba lần một ngày. Tôi nhận ra những lời kinh đó thật quan trọng: "Thánh Thiên Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần... Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời: tôi xin vâng như lời Thánh Thiên Thần truyền... Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người và ở cùng chúng tôi..." Thật là những lời thần lực! Những lời ấy diễn tả thực tế thâm sâu của một biến cố trọng đại nhất đi vào lịch sử nhân loại.
Đó là gốc nguồn của khẩu hiệu Totus Tuus. Câu nói này phát xuất từ Thánh Louis Marie Grignion de Monfort. Đó là lời nguyện tắt của câu nghi thức tín thác đầy đủ hơn nơi Mẹ Thiên Chúa được diễn tả như sau: "Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua sunt. Accipio Te in mea omnia. Praebe mihi cor Tuum, Maria." (Con đây là Tất cả của Mẹ và mọi sự của con là Của Mẹ. Con nhận lãnh Mẹ trong tất cả mọi sự của con. Xin Mẹ hãy cho con mượn trái tim Mẹ, lạy Mẹ Maria). Và như thế, nhờ Thánh Louis, tôi bắt đầu khám phá ra những kho tàng bao la trong việc sùng kính Mẹ Maria theo những nhãn quan mới. Thí dụ, khi còn trẻ thơ, tôi thường nghe hát "Giờ kinh Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội" trong nhà thờ giáo xứ, nhưng chỉ sau này tôi mới nhận ra được nội dung thần học và Thánh Kinh phong phú. Cũng thế, các bài hát dân ca như những bản Thánh ca Giáng Sinh Ba Lan và Kinh Cầu Chịu Nạn trong Mùa Chay làm nổi bật những lời tâm hồn than vãn với Mẹ Sầu Bi.
Những kinh nghiệm thiêng liêng này đã là nền tảng hình thành cho hành trình cầu nguyện và chiêm niệm dần dần dẫn đưa tôi tới thiên chức linh mục và sau này vẫn tiếp tục dẫn hướng tôi trong mọi biến cố cuộc đời. Suốt từ hồi thơ ấu và cho tới khi làm linh mục và giám mục, hành trình cầu nguyện và chiêm niệm này vẫn dẫn dắt tôi thường xuyên lên đường hành hương Thánh Mẫu về Kalwaria Zebrzydowska. Kalwaria là một linh địa kính Đức Mẹ chính yếu của Tổng Giáo phận Cracow. Tôi thường đến đó, đi dọc theo lối mòn trong thanh vắng và trong lời kinh, tôi trình bầy với Chúa nhiều vấn đề đa dạng trong Giáo hội, nhất là vào những thời kỳ đầy khó khăn trong cuộc chiến đấu chống Cộng sản. Khi nhìn lại, tôi thấy tất cả mọi chuyện được nối kết với nhau: ngày nay cũng như quá khứ, chúng ta nhận ra mình cũng bị lôi vào một huyền nhiệm thật thâm sâu.
Như tôi vẫn thường nói, ơn gọi linh mục đã chín mùi dứt khoát vào thời điểm Đệ Nhị Thế Chiến, trong thời Đức Quốc chiếm đóng. Phải chăng đây chỉ là chuyện tình cờ hay là một nối kết thâm sâu hơn giữa những gì đang phát triển trong tôi với những biến động lịch sử bên ngoài? Thực khó trả lời cho một câu hỏi như thế. Chắc chắn, trong kế hoạch của Thiên Chúa, chẳng có gì xẩy ra ngẫu nhiên cả. Tất cả những gì tôi muốn nói chính là thảm kịch chiến tranh đã đem tới diễn trình chín mùi cho một chọn lựa ơn gọi một cách độc đáo.. Điều đó đã giúp tôi hiểu theo một cách thức mới về giá trị và tầm quan trọng của ơn gọi. Đối diện với những tội ác hoành hành và những thảm khốc của chiến tranh, tôi cũng hiểu được ý nghĩa và sứ mạng của thiên chức linh mục trong thế giới.
Chiến tranh bùng nổ đã đẩy tôi xa khỏi đại học và công việc bút nghiên và theo học Đại học. Vào thời điểm này, tôi cũng mất người cha thân yêu là một thành phần thân thuộc trực tiếp cuối cùng trong gia đình tôi. Một cách khách quan, tất cả những chuyện đó đã đem tôi thoát dần khỏi những kế hoạch đầu đời của tôi, giống như đã bị đánh bật rễ khỏi mảnh đất đã vun trồng nhân loại tính của tôi cho đến lúc đó.
Tiến trình này không chỉ tiêu cực như thế, nhưng cùng lúc một điểm sáng bắt đầu chiếu rọi rõ rệt hơn bao giờ hết trong ký ức tôi: Thiên Chúa muốn tôi trở thành linh mục của Ngài. Một ngày kia tôi nhìn thấy điều này thật rõ rệt tựa như một khai ngộ nội giới đem đến cho tôi niềm hân hoan và chắc chắn về một ơn gọi mới. Chính tâm thức này đã làm ngập tràn hồn tôi niềm an bình thâm sâu cao cả.
Tiến trình này không chỉ tiêu cực như thế, nhưng cùng lúc một điểm sáng bắt đầu chiếu rọi rõ rệt hơn bao giờ hết trong ký ức tôi: Thiên Chúa muốn tôi trở thành linh mục của Ngài. Một ngày kia tôi nhìn thấy điều này thật rõ rệt tựa như một khai ngộ nội giới đem đến cho tôi niềm hân hoan và chắc chắn về một ơn gọi mới. Chính tâm thức này đã làm ngập tràn hồn tôi niềm an bình thâm sâu cao cả.
Tất cả những chuyện này xẩy ra đối kháng lại đấu trường của những biến cố kinh hoàng đang xẩy ra chung quanh tôi tại Kraków, Ba Lan, Âu Châu và trên thế giới. Tôi chỉ trực tiếp cảm nghiệm được một phần nhỏ những gì mà những người đồng hương của tôi đã phải trải qua từ năm 1939 về sau. Tôi đặc biệt nghĩ đến các bạn học cùng lớp tại Wadowice, những người bạn thân thiết, và một số trong họ là người Do Thái. Một số đã đăng ký vào quân đội từ năm 1938. Tôi tin rằng người đầu tiên bỏ mình trong cuộc chiến chính là người trẻ nhất trong lớp tôi. Sau này tôi biết được một cách đại quan về số phận của những người khác đã ngã gục trên những chiến tuyến khác, hoặc chết trong các trại tập trung, hoặc chiến đấu tại Tobruk và Montecassino, hoặc bị đem đi đầy ải tại các lãnh thổ của Liên Bang Sô Viết: Nga Sô và Kazakhstan. Lúc đầu tôi biết được những chuyện này một phần, nhưng sau đó đầy đủ hơn trong buổi họp mặt các bạn học cũ tổ chức năm 1948 tại Wadiwice, nhân dịp kỷ niệm năm thứ mười ngày tốt nghiệp của chúng tôi. Tôi đã được che chở rất nhiều khỏi tấn thảm kịch rộng lớn và hãi hùng của Đệ Nhị Thế Chiến.
Tôi có thể bị bắt giữ bất cứ ngày nào tại nhà, nơi hầm đá, trong công xưởng và bị đưa đến trại tập trung. Đôi khi tôi tự hỏi: vô số người trẻ cùng trang lứa đã thiệt mạng, tại sao không phải tôi? Ngày nay tôi hiểu rằng đó không chỉ là số may. Giữa những chồng chất của tội ác chiến tranh như thế, những gì xẩy ra trong cuộc sống cá nhân của tôi đều hướng đến lợi ích cho ơn gọi của tôi. Tôi không thể quên những tấm lòng từ nhân biểu lộ nơi những người Chúa đã đặt định trong bước đường đời của tôi vào giai đoạn cực kỳ khó khăn đó, kể cả những phần tử trong gia đình tôi, đồng môn của tôi cũng như những bạn hữu của tôi.
Tôi được phong chức linh mục vào một ngày khác thường đối với bao nghi lễ như thế này: đó là ngày mồng một tháng mười một, ngày Lễ Các Thánh. Ngày đó phụng vụ trong Giáo hội hoàn toàn quy hướng về cử hành mầu nhiệm Các Thánh Thông Công và chuẩn bị kính nhớ các tín hữu đã lìa trần. Đức Tổng Giám mục đã chọn ngày này vì tôi đã được sắp xếp đi Roma tiếp tục công việc học hành. Tôi được phong chức một mình trong nhà nguyện riêng của các Đức Tổng Giám mục Kraków. Các đồng môn của tôi được truyền chức vào năm sau trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá.
Tôi đã được truyền chức trợ phó trế và phó tế trong tháng mười. Đó là tháng cầu nguyện cao độ, được xen kẽ bằng nhiều buổi tĩnh tâm nhằm chuẩn bị cho tôi chịu các Chức Thánh: sáu ngày tĩnh tâm trước chức Trợ Phó tế, rồi ba ngày trước chức Phó tế và sáu ngày trước khi thụ phong Linh mục. Trong đợt tĩnh tâm cuối cùng, tôi đã tĩnh tâm một mình trong nhà nguyện chủng viện. Buổi sáng ngày Lễ Các Thánh, tôi đã có mặt tại Tòa Tổng Giám mục Cracow, số 3 đường Franciszkanska để thụ phong linh mục. Chỉ có một nhóm nhỏ thân quyến và bạn hữu hiện diện trong nghi lễ này.
Sau khi được thụ phong linh mục vào Lễ Các Thánh, tôi đã cử hành Thánh Lễ Mở Tay vào ngày Lễ Các Linh Hồn, ngày mồng 2 tháng 11 năm 1946. Vào ngày đó, mỗi linh mục được phép cử hành ba Thánh Lễ vì lợi ích các tín hữu. Như vậy hóa ra tôi đã cử hành ba Thánh Lễ Mở Tay. Thực là một cảm nghiệm rung động sâu xa. Tôi đã cử hành ba Thánh Lễ nơi hầm mộ Thánh Leonard. Hầm mộ này trong nhà thờ Chính Toà Wawel tại Cracow , là phần phía trước của nơi được mệnh danh là nhà thờ Chánh Tòa Herman của Tòa Giám mục. Ngày nay hầm mộ là phần của tòa nhà dưới hầm nơi các ngôi mộ hoàng gia được chôn cất. Tôi đã chọn nơi đây để cử hành các Thánh Lễ Mở Tay để bộc lộ những mối giây liên kết linh thiêng với những vị được chôn cất trong ngôi Nhà Thờ Chính Tòa này. Mang đầy vết tích lịch sử, đây là công trình kiến trúc vô tiền khoáng hậu. Khác xa bất cứ ngôi thánh đường Ba Lan nào, Vương Cung Thánh Đường Wawel mang nhiều ý nghĩa lịch sử và thần học. Các vua chúa Ba Lan được chôn cất nơi đây, bắt đầu với Władysław Lokietek: nơi đó các ngài được phong vương và cũng là nơi an nghỉ giấc ngàn thu. Tất cả những ai đến viếng thánh địa này đều nhận thấy mình chìm đắm trong lịch sử dân tộc.
Và đó là lý do tại sao tôi muốn cử hành các Thánh Lễ Mở Tay nơi hầm mộ Thánh Leonard: tôi muốn diễn tả mối giây liên kết thiêng liêng với lịch sử Ba Lan, một lịch sử được biểu tượng bằng ngọn đồi Wawel. Nhưng còn nhiều nữa. Việc lựa chọn của tôi còn mang một ý nghĩa thần học đặc biệt. Như tôi đã nói, tôi đã được truyền chức vào ngày trước đó, ngày Lễ kính Trọng Thể Các Thánh, khi Giáo hội diễn tả bằng phụng vụ về thực tại Các Thánh Cùng Thông Công - communio sanctorum. Các Thánh là những người đã chấp nhận Huyền Nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô bằng đức tin, và bây giờ đang chờ cuộc phục sinh tối hậu.
Tất cả những vị có di hài trong các mồ nơi Vương Cung Thánh Đường Kraków , đều đang nằm đó chờ ngày sống lại. Như vậy toàn bộ Vương Cung Thánh Đường xem ra như đang vang vọng lời kinh Tin Kính của các Tông đồ: "Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. "Chân lý của niềm tin này cũng chiếu dọi vào lịch sử các dân tộc. Tất cả những vị ấy đều là những "bậc thượng trí" dìu dắt quốc gia qua mọi thời đại. Trong hàng ngũ các ngài, không những chúng ta chỉ tìm thấy các bậc vua chúa, các hoàng hậu, hoặc các giám mục và hồng y, nhưng còn cả các thi nhân, các bậc đại văn hào đã ảnh hưởng rất nhiều vào công việc giáo dục tôi thành một Kitô hữu và một nhà ái quốc.
Có ít người tham dự các Thánh Lễ Mở Tay của tôi được cử hành trên đồi Wawel: trong số đó, tôi còn nhớ mẹ đỡ đầu Maria Wiadrowska, người chị của mẹ tôi. Mieczyslaw Malinski giúp lễ, một cách nào đó, anh chính là một hiện thân tâm trí và thể xác của Jan Tyranowski, lúc đó đang đau nặng. Sau này, khi là linh mục và giám mục, tôi luôn luôn tới thăm viếng hầm mộ Thánh Leonard với đầy xúc động. Và tôi thích thú biết bao nếu được cử hành Thánh Lễ kỷ niệm 50 năm thụ phong linh mục tại đó!
JAN PAWEŁ II
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét