Trang

Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2010

Thư tống tiền Chúa

Sưu tầm

Giáng Sinh sắp đến rồi và Sammy rất muốn mẹ mua cho cậu một chiếc xe đạp. Mẹ cậu nói rằng tốt nhất là cậu nên viết thư cho ông già Noel hỏi xin. Nhưng Sam nói rằng cậu thích viết cho Chúa Jesu hơn, và mẹ cậu bảo thế cũng được.
Sam đi về phòng và viết: "Chúa kính mến, con là một cậu bé ngoan và con thích một chiếc xe đạp vào dịp Giáng Sinh".
Nhưng khi đọc lại Sam không hài lòng. Cậu quyết định viết lại: "Chúa kinh mến, con là một cậu bé ngoan ơi là ngoan, và con thích có một chiếc xe đạp vào dịp Giáng Sinh lắm!".
Vẫn không thấy được. Cậu viết lần nữa: "Chúa kính mến, nếu con cố gắng, và nhất là nếu con có một chiếc xe đạp mới, thì con hẳn đã là một cậu bé ngoan rồi".
Lần viết thứ ba này Sam vẫn thấy chưa ưng ý. Vì thế cậu bước ra ngoài đi dạo một chút cho tỉnh táo và để nghĩ cách viết sao thuyết phục nhất. Đi một lúc, Sam bước ngang qua một ngôi nhà nhỏ có bức tượng Đức mẹ Đồng Trinh trong vườn trước. Cậu bò vào, lấy áo khoác trùm lên bức tượng, sau đó ôm bức tượng chạy vù về nhà, giấu xuống gầm giường. Cậu hăm hở cầm bút viết thư cho Chúa: "Thưa Chúa, nếu ngài muốn gặp lại mẹ của ngài, thì hãy mang một chiếc xe đạp đến đây!".

Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2010

Những Câu Chuyện Giáng Sinh

Christmas Day - Lịch sử lễ Giáng Sinh
Sưu tầm



Chữ Giáng Sinh có nguồn gốc từ tiếng La tinh - chữ Natalis - nghĩa là ngày sinh ra đời. 

1. NGUỒN GỐC
Tại thành phố Roma - Ý đã có một buổi lễ được tổ chức vào ngày 25 tháng 12 từ một thế kỷ trước kỷ nguyên Thiên Chúa . Người dân La Mã làm lễ tôn thờ Mirthra, gốc Ba Tư, được mang vào Roma bởi những người lê dương La Mã. Mirthra là vị thần ánh sáng của người Ba Tư . Lễ vào ngày 25 tháng 12 là ngày điểm chí của mùa đông, sự ra đời của Mirthra tượng trưng cho sự bất bại của mặt trời (Dies natalis solis invicti). Trong buổi lễ người ta cúng thần bằng một con bò rừng nhỏ.
Năm 274, hoàng đế La Mã Aurélien tuyên bố việc tôn thờ thần Mirthra là quốc giáo và lấy ngày 25 tháng 12 để cử hành lễ.
Lễ Noël chưa xuất hiện vào thời kỳ đầu của đạo Thiên Chúa. Chỉ từ vào thế kỷ thứ II sau nhiều lần tìm tòi để có thể lấy một ngày nào đó trong năm làm ngày ra đời của Chúa Jésus vì không tìm thấy một dấu vết nào đề cập đến việc này trong các sách Phúc Âm. Nhiều ngày, tháng đã được đề nghị như ngày 6 tháng Giêng, ngày 25 tháng 3, ngày 10 tháng Tư…nhưng vẫn không dẫn đến một quyết định dứt khoát nào.
Tại La Mã, Giáo hội Thiên Chúa đã chọn ngày 25 tháng 12 làm ngày sinh của Chúa Jésus chắc chắn không hẳn không có hậu ý đối với buổi lễ cổ truyền tại đây : lễ kỷ niệm ngày sinh của thần “tà giáo” Mirthra. Vào những năm 330 hay 354, hoàng đế La Mã Constantin quyết định lấy ngày Noël là ngày 25 tháng 12.
Năm 354, Giáo hoàng Libère ấn định cử hành lễ vào ngày 25 tháng 12. Ngày này đã có một giá trị tượng trưng vì theo Malachie 3/19 và Luc 1/78 người ta xem như sự hiện diện của Chúa Cứu Thế như một sự mở màn cho “mặt trời của công lý”. Như thế buổi lễ Noël cũng là ngày sinh của Jésus mặt trời công lý.
Buổi lễ vào ngày 25 tháng 12 dần dần phát triển về phương Đông và vùng Gaule (Pháp ngày xưa) : vào năm 379 tại Constantinople, đầu thế kỷ thứ V tại đất Gaule, trong thế kỷ thứ V tại Jérusalem và vào cuối thế kỷ thứ V tại Ai Cập. Các giáo hội Đông Phương vào thế kỷ thứ IV cũng cử hành lễ dười nhiều hình thức khác nhau vào ngày 6 tháng Giêng để biểu dương cho Thượng đế.

2. LỊCH SỬ NGÀY NOËL ĐẾN CUỐI THỜI TRUNG ĐẠI
Hoàng đế La Mã Théodore vào năm 425 đã nguyên tắc hoá những nghi lễ cho Noël . Buồl lễ vào ngày 25 tháng 12 đã trở nên đặc biệt dành cho những người theo Thiên Chúa Giáo. Clovis được rửa tội vào đêm Noël năm 496. Năm 506, hội nghị Giám mục Agle đã ấn định ngày lệ này như một nghĩa vụ phải có. Năm 529, hoàng đế La Mã Justinien đã ban hàng chỉ thị là ngày nghỉ được trả lương.
Buổi lễ nhà thờ vào nửa đêm được cử hành từ thế kỷ thứ V dưới triều đại của Giáo Hoàng Grégoire Le Grand.
Vào thế kỷ thứ VII, một tục lệ đã được ấn định tại La Mã để cử hành 3 buổi lễ : lễ trọng vào chiều ngày 24 tháng 12, lễ vào buổi sáng và ngày 25 tháng 12 tại các nhà thờ.
Ngày lễ Noël được lan tràn khắp Âu châu : Thế kỷ thứ V tại Ailenn thế kỷ thứ VII tại Anh quốc, thứ VIII tại Đức, thử IX tại các quốc gia vùng Bắc Âu , thứ IX và X tại các quốc gia vùng Xla-vơ.
Kể từ thế kỷ thứ XII, nghi thức tôn giáo được cho kèm thêm những “thảm kịch” lễ bái, những “bí mật” được dàn dựng cảnh tôn thờ của những mục đồng hoặc đám rước những vị đạo sĩ ba tư (mage). Những “thảm kịch lễ bái ” này được trình diễn đầu tiên trong ngay nhà thờ rồi sau đó được đem ra sân trước nhà thờ.

3. LỄ NOËL TỪ THỜI PHỤC HƯNG
Những màng cỏ xuất hiện trong nhà thờ tại Ý đại lợi từ thế kỷ thứ XV và cây Noël tại Đức vào thế kỷ thứ XVI. Sau đó được lan đến các gia cư vùng Na-pô-li rồi các vùng miền Nam nước Pháp từ thế kỷ thứ XVII.
Trong thời kỳ phục hưng vào năm 1560, những người Tin Lành chống đối với sự hiện diện của máng cỏ và họ ưa chuộng phong tục cây Noël hơn. Cùng với sự đối kháng trong giai đoạn phục hưng vào thế kỷ thứ XVII, những trình diễn “thảm kịch lễ bái” đã bị cấm chỉ vì trở thành quá “phàm tục” một cách quá đáng.
Ngày nay, lễ Noël đã trở thành một buổi lễ dành cho trẻ em và gia đình.

4. Ý NGHĨA CỦA NGÀY NOËL
Ngoài ý nghĩa theo đạo Thiên Chúa, Noël là một ngày lễ gia đình, một ngày đặc quyền để tụ tập quây quần mọi người, mọi thế hệ trong gia đình. Lễ này dưới mọi hình thức được biểu lộ, tạo những kỷ niệm chung và duy trì tình cảm giữa mọi người trong gia đình. Mỗi người tìm được, bằng cách thức riêng của mình, để tạo dựng mối liên hệ : chia sẻ với nhau một bữa ăn chung, một đêm không ngủ, nghe thuật lại một câu chuyện, quây quần bên cạnh cây sa pin Noël… Với địa vị ngày càng lớn lao của trẻ con trong gia đình, ngày Noël trở thành một buổi lễ của trẻ em : một đêm thần diệu mà hầu như tất cả mọi ước nguyện trẻ con được thành sự thật trong sự sung sướng của những người lớn.
Ngày Noël cũng là một thông điệp của hoà bình : “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người Chúa thương.” đây là câu được hát bởi những Thiên Thần báo tin sự xuất hiện của Vị Cứu Thế và Noël cũng là ngày người ta chia sẻ với những ai bị bỏ rơi, bị cô đơn, bệnh hoạn, già yếu…

Thứ Ba, 14 tháng 12, 2010

Những Biểu Tượng Noel

VÒNG LÁ MÙA VỌNG



Vòng lá mùa vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí - dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữu Pháo Lutheran ở Đức vào thế kỉ XVI để nói lên sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối
Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hi vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. Bốn cây nến bao gồm ba cây màu tím - màu của Mùa Vọng - tượng trưng cho sự Sám Hối, và một cây màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng (Gaudete Sunday).

THIỆP GIÁNG SINH 

Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole, một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ John Calcott Horsley, một họa sỹ ở London, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kì người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.


QUÀ GIÁNG SINH


Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bè bạn. Đối với một số người, những món quà Giáng Sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giêsu, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người.
Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethelehemtrong một cái máng cỏ, ba vị vua phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, trầm hương và mộc dược. Vàng tượng trưng Chúa Giêsu là vua ( tức con Chúa Cha - Vua Nước Trời), trầm hương tượng trưng Chúa Giê-su là Thiên Chúa và mộc dược biểu hiện hình ảnh Chúa Giê-su bị đóng đinh trên cây thánh giá hay nói rõ hơn là sự chịu chết của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.
Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giê-su hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.
Ông già Noel thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc tất.

NGÔI SAO GIÁNG SINH



Các ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rực rỡ đủ mầu sắc trong mùa Giáng sinh, các nhà thờ đều có treo vô số ngôi sao 5 cánh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía, có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt.
Ngôi sao trong lễ Giáng Sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì trên trời xuất hiện một ngôi sao rực rỡ . Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm còn nhìn thấy. Từ các vùng phía Đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran và Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua. Từ đó ba vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được hang đá thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các phẩm vật trầm hương và châu báu vàng bạc.
Ngôi sao trở thành biểu trưng ý nghĩa trong mùa Giáng Sinh và được treo chỗ trang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đêm Giáng Sinh để nhớ đến sự tích trên. Do ý nghĩa ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng Đế.

CÂY TẦM GỬI VÀ CÂY ÔRÔ (CÂY NHỰA RUỒI)



Hai trăm năm trước khi Chúa Jesus ra đời, người ngoại đạo dùng cây tầm gửi để kỉ niệm ngày Mùa Đông đến. Họ thường dùng nó để trang trí trong ngôi nhà của mình. Họ tin rằng loại cây này có một khả năng chữa trị đặc biệt đối với mọi loại bệnh tật.
Những người dân ở đảo Xcăngđinavi cũng coi cây tầm gửi là biểu tượng của hoà bình và sự hoà thuận. Họ còn đồng nhất cây tầm gửi với nữ thần tình yêu của họ là thần Frigga. Phong tục hôn nhau  dưới bóng cây tầm gửi hẳn là xuất phát từ niềm tin này.
Lúc đầu nhà thờ cắm sử dụng cây tầm gửi trong lễ Giáng Sinh vì nguồn gốc ngoại đạo của nó. Thay vào đó, cha đạo đề nghị dùng cây ô-rô (Cây nhựa ruồi) làm loại cây dùng cho lễ Giáng Sinh.
Ý nghĩa của vòng tầm gủi và vòng ô rô: tượng trưng cho mão gai của Chúa Giê-xu. Hạt ô rô màu đỏ giống như máu của Ngài.

CÂY GẬY KẸO


Vào những năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của lễ Giáng Sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo. Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi kẹo của mình thành hình một chiếc gậy kẹo. Qua cây gậy kẹo của mình, ông đã kết hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hi sinh của Chúa Jesus. Màu trắng biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của Chúa Jesus. Ba sọc đỏ nhỏ tượng trưng cho những đau đớn mà Đức Chúa Jesus đã phải chịu trước khi Ngài chết trên thập tự giá. Ba sọc đỏ còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh Thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà Chúa đã đổ cho loài người. Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt cây gậy của người chăn cừu vì Chúa Jesus chính là người chăn dắt con người. Nếu bạn lật ngược cây gậy nó sẽ trở thành chữ J là chữ cái đầu tiên của tên Chúa Jesus. Nhờ có người thợ làm kẹo đó mà mọi người đều biết được lễ Giáng Sinh nói về điều gì.

BÁNH BÛCHE DE NOËL



Bánh Bûche de Noël là một loại bánh theo truyền thống kiểu Pháp được sử dụng trong dịp lễ hội Giáng sinh. Chiếc bánh này thường được chuẩn bị và trang hoàng như là một khúc củi dùng để đốt trong lò sưởi. Chiếc bánh bûche truyền thống được làm từ bánh nướng xốp, cuộn lại thành hình trụ tròn sau đó được phù kem bề mặt và xung quanh. Thông dụng nhất là loại bánh nướng vàng, phủ kem sô-cô-la. Bánh Bûche thường được dùng bằng cách cắt lát như là cưa từng khúc cây vậy. Những chiếc bánh Bûche ngày nay được trang hoàng bởi bột đường trắng giống như tuyết, trái cây tươi, và những cái nấm được làm bằng kem đường.
Có một tục lệ  trong đêm trước Giáng sinh, người ta hay chặt một khúc cây lớn và đem vào nhà để làm lễ. Khúc cây sẽ được đặt trên lò sưởi, người chủ nhà làm lễ dâng rượu bằng cách rắc lên khúc cây một ít dầu, muối, và rượu nóng, và đọc lên những lời cầu nguyện. Trong một vài gia đình, người con gái trẻ trong gia đình sẽ nhóm lửa đốt khúc cây bằng một ít gỗ vụn mà họ đã chuẩn bị và cất giữ từ năm trước. Ở một số gia đình khác thì người mẹ được ưu tiên thực hiện động tác này. Tương truyền rằng những bột than có từ khúc cây đã cháy này sẽ bảo vệ cho ngôi nhà khỏi tránh được thiên tai và sự xâm nhập của ma quỷ. Những chọn lựa về các loại gỗ khác nhau, cách đốt khúc cây và khoảng thời gian để làm nghi thức này thay đổi tùy theo những vùng khác nhau.
Từ thế kỷ 12 tục lệ này được áp dụng ở hầu hết các quốc gia tại Châu âu, đặc biệt tại Pháp và Italia. Tục lệ này vẫn còn được duy trì ở Quebec như trước đây cho đến những năm cuối thế kỷ 19. Sau đó nó dần biến mất đi khi những lò sưởi đá lớn được thay thế bởi những lò sưởi hiện đại bằng kim loại. Những khúc cây lớn được thay thế bởi những khúc cây nhỏ hơn, được trang trí xung quanh bằng những ngọn nến và cây cỏ, đặt giữa bàn như là một vật trang trí.
Ngày nay, bánh khúc cây Giáng sinh đã trở thành một món bánh ngọt truyền thống, được phủ bởi kem cà phê hoặc sô-cô-la và trang trí đẹp mắt.

QUÀ TẶNG TRONG NHỮNG CHIẾC BÍT TẤT



Tương truyền rằng, nhà kia có 3 cô gái đến tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của 3 cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống đúng các đôi bít tất mà các cô treo hong bên lò sưởi. Khỏi phải nói cũng biết rằng các cô vui mừng đến mức nào. Họ đã có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình.





HANG ĐÁ



Chúa sinh ra trong một hang đá nhỏ, nơi máng cỏ của các mục đồng chăn chiên tại thành Bethelem. Ngày nay, vào đêm 24/12 tại các giáo đường đều có hang đá với máng cỏ, bên trong có tượng Chúa Hài đồng, tượng Đức mẹ Maria, chung quanh có những con lừa, tượng Ba Vua, một số thiên thần, Thánh Giuse trên mái nhà có ánh sáng, chiếu từ một ngôi sao hướng dẫn ba vua tìm đến với Chúa. Mọi người đều hướng về Chúa nhân từ, cầu nguyện Chúa cứu rỗi cho nhân loại tránh khỏi chiến tranh, nghèo đói và bất hạnh.
Theo tập tục bên Đông phương: máng cỏ, nôi Chúa nằm lúc sinh ra, được làm bằng đá có hình thể trông giống như một quan tài. Và hài nhi Giêsu được quấn khăn tã đặt nằm trong đó như xác một người qua đời.
Hình ảnh này muốn diễn tả Chúa Giêsu sinh ra trong hang đá và lúc qua đời cũng được mai táng trong mồ đá. Trong hang đá sự sống đã khởi đầu khi Chúa Giêsu sinh ra làm người và cũng trong mồ đá Chúa Giêsu đã sống lại, khởi đầu một đời sống mới. Đời sống cứu độ.
Nghệ thuật cùng tập tục bên phương Tây xây dựng hang đá máng cỏ như một bàn thờ. Hình ảnh này muốn diễn tả lễ tế Tạ ơn, Bí tích Thánh Thể. Bethlehem có nghĩa là "nhà làm bánh mì“. Khi cử hành Bí tích Thánh thể là tưởng nhớ lại sự sinh ra làm người của Chúa khi xưa trong hang đá ngoài cánh đồng Bethlehem. Và trong mỗi Thánh lễ chúng ta cùng tiếp nhận Tấm Bánh Thánh thể từ trời cao, ngày xưa đã sinh xuống trên đồng Bethlehem "ngôi nhà làm bánh mì“, là lương thực cho niềm tin vào Chúa.
Hang đá máng cỏ vì thế không nhất thiết phải bằng đá thiên nhiên, nhưng đa số làm bằng gỗ. Trong đó Chúa Giêsu được đặt nằm trên rơm cỏ, có đàn súc vật bò lừa ngồi nằm thở hơi ấm chung quanh. Hình ảnh này nói lên sự khó nghèo, khiêm hạ của Chúa.
Thánh Phanxicô thành Assisi năm 1223 ở vùng Walde von Grecco đã cùng với các anh em Dòng của ngài dựng làm ra hang đá Chúa giáng sinh đầu tiên dựa theo những lời thuật lại trong phúc âm về đêm Chúa sinh ra năm xưa và theo kiểu ru con trong một chiếc nôi.
Nhạc điệu và nôi ru con là một hình thái rất phổ thông được qúy trọng trong dân gian. Và từ thế kỷ 14 xuất hiện nhiều kiểu hang đá Chúa giáng sinh theo hình thức này. Hài nhi Giêsu được đặt trong một máng như một nôi cho em bé nằm, trong đó có lót cỏ rơm khô cho êm ấm, có Mẹ Maria và Thánh Giuse đứng bên cạnh. Chung quanh là các thú vật bò, lừa, cừu, các mục đồng đến thăm viếng trò truyện, trên cao chỗ tường vách có Thiên Thần bay lượn ca hát.
Hình ảnh này thật đẹp, thơ mộng và mang tính trẻ thơ hoang đường. Nhưng nó gợi lên tâm tình đầm ấm trong một mái nhà, tuy nghèo hèn đơn sơ, nhưng là quê hương tổ ấm cho con người.
Rơm cỏ lót cho Hài nhi nằm êm ấm trong máng cỏ cũng là sứ điệp nhắn gửi: Hang đá máng cỏ do con người chế biến làm ra và tâm hồn con người cũng có thể là nơi Chúa Giêsu sinh ra. Khi ta sống bác ái tình người, khi làm việc thiện hảo tốt lành cho người đồng loại.

Ngày nay, người dựng hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh phần nào theo truyền thống hang đá Thánh Phanxicô Khó Khăn đã nghĩ làm ra.Nhưng vật liệu xây dựng khác nhau hoặc bằng gỗ, hoặc bằng giấy rồi sơn phết mầu xám của đá. Ngoài những bộ tượng giáng sinh đặt trong đó, đèn điện cũng được chăng mắc thêm vào tùy theo văn hóa, thẩm mỹ cùng lòng cung kính đạo đức của từng dân tộc thời đại.

NẾN GIÁNG SINH



Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến đêm Giáng Sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông mùa Giáng Sinh. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà để tượng trưng cho Ngôi Sao trên làng Bê-lem.
Có một huyền thoại khác kể rằng một bé trai nọ bị đi lạc đêm Giáng Sinh nhang nhờ ánh đèn nến nới cửa sổ phòng mẹ, đã tìm được lối về đến nhà.
Lại có một truyền thuyết khác kể rằng thánh Maria và Giu-se đêm Chúa Giáng Sinh đã tìm ra nơi trú ngụ nhờ lần theo ánh đèn hắt ra từ cửa nhỏ một cái chuồng bò lừa.
Ánh sáng của những ngọn nến có ý nghĩa là thắp sáng lên (light up) niềm hi vọng (hope), hòa bình (peace), tình yêu (love) và niềm vui (hapiness), chúng luôn soi sáng dẫn đường cho chúng ta bước qua những ngày u tối (show the pathway to safety).
Trong các buổi lễ Giáng Sinh, sẽ có 4 ngọn nến được thắp lên:
The Candle of Hope (Ngọn nến của Hi vọng)
The Candle of Peace (Ngọn nến của Hòa bình)
The Candle of Love (Ngọn nến của Tình yêu)
The Candle of Joy (Ngọn nến của Niềm Vui)
Và ngọn nến thứ 5 tượng trưng cho ngày sinh của Chúa.

BỮA ĂN REVEILLON



Tại Alsace, Pháp, bữa ăn này phải gồm có tam hành là thủy (cá chép, con hàu), không khí (gà tây hay ngỗng) và mộc (thịt heo). Tập tục ăn gà tây là do thủy thủ của nhà thám hiểm Christophe Colombo du nhập từ Mexico.


Sưu tầm

Chủ Nhật, 12 tháng 12, 2010

LỄ GIÁNG SINH TRONG PHONG TỤC VÀ VĂN HÓA BA LAN



Hàng năm cứ vào những ngày cuối năm dương lịch, mọi người trên thế giới đều hướng về lễ Giáng Sinh, lễ này được coi như một sự kiện trọng đại nhất trong lịch sử nhân loại. Và biến cố lịch sử này đã được mọi người mặc nhiên công nhận như một cái mốc thời gian, để tính ngày giờ năm tháng cho tất cả các biến cố lớn nhỏ xảy ra trên thế giới cũng như trong cuộc sống riêng tư mỗi người.
Mừng Chúa Giáng Sinh, tiếng Ba Lan gọi là BOŻE NARODZENIE, lễ này được coi là một đại lễ trong năm và được cử hành vào ngày 25/12 hằng năm. Đối với người Ba Lan, lễ Giáng Sinh chiếm một chỗ đặc biệt trong truyền thống lễ hội của họ. Đặc biệt đêm Vọng giáng sinh, là đêm đẹp nhất, huyền nhiệm nhất trong mọi đêm. Người Ba Lan tổ chức đêm Vọng giáng sinh khá đặc biệt, trong quá khứ cũng như thời hiện tại.
Lễ Giáng Sinh được người Ba Lan chuẩn bị trước cả vài tuần, nhà cửa được tổng vệ sinh, trang hoàng, và mua sắm là điều không thể thiếu. Tất cả các cửa hàng, siêu thị tấp nấp người đến mua sắm. Thiệp giáng sinh được gởi đến cho nhau, cho người thân, họ hàng và bạn bè thân thiết với những lời chúc tốt đẹp nhất. Tất cả như là dấu chỉ để nhớ đến nhau.
Ngày trước đêm Vọng giáng sinh là một ngày không như thường lệ, không giống như mọi đêm khác. Bầu khí khác hẳn, trong bầu khí chờ đợi, đón mừng Con Chúa giáng trần. Vọng giáng sinh, tiếng Ba Lan gọi là WIGILIA, từ này bắt nguồn từ nguyên ngữ la tinh, có nghĩa là canh thức hay là đêm vọng. Đêm mà trước ngày lễ trọng, các tín hữu chuẩn bị bằng việc canh thức, cầu nguyện. Tập tục này bắt nguồn từ thời Giáo Hội sơ khai, đặc biệt là đêm Vọng Phục sinh, Giáng sinh và các tối thứ bảy. Tại Ba Lan, mãi đến thế kỷ thứ XVII Vọng giáng sinh, mới được lưu truyền. Vào đêm này, tất cả các thành viên trong gia đình sum họp nhau. Đây là dịp đặc biệt trong năm, mà mỗi thành viên dù đi làm xa, bận rộn ở chố nào, đều phải trở về gia đình nếu có thể được. Trong bầu khí gia đình, mọi người tụ họp quanh bàn ăn, cùng chúc nhau những điều tốt đẹp nhất, dùng bữa tối với những món ăn truyền thống, rồi hát thánh ca giáng sinh. Ngoài những người thân, họ hàng, người người cô thế, cô thân cũng được mời đến. Vọng giáng sinh cũng được gọi là đêm của gia đình.

CHỖ TRỐNG NƠI BÀN ĂN

Một phong tục khá phổ biến và được biết đến, đó là dành chổ trống nơi bàn ăn trong đêm này. Thật khó để xác định, phong tục này có từ khi nào, những mãi đến hôm nay nó vẫn được giữ một chỗ không thể thiếu trong phong tục ba lan. Chỗ trống này dành cho những vị khách, có thể là những người không mời mà đến. Nhà văn Zbigniew Kossak viết rằng „chỗ trống dành cho bất cứ ai đến nhà vào đêm vọng này, thì coi họ như người anh em”. Dành chỗ trống nơi bàn ăn, cũng là dịp để nhớ đến những người thân không thể mừng lễ chung với nhau, hay là nhớ đến những người quá cố trong gia đình.

CHIA NHAU BÁNH THÁNH



Quan trọng, và cảm động nhất trong giờ phút Vọng giáng sinh là phong tục chia nhau bánh thánh, xin lỗi nhau và chúc những gì tốt đẹp nhất. Lời chúc phổ biến nhất mà ai cũng biết đến đó là: „Wszystkiego najlepszego, hay Wesołych Świąt” nghĩa là chúc mọi điều tốt đẹp nhất, hay  mừng lễ vui vẻ.  Bánh thánh được các linh mục làm phép trước khi chia nhau, hình thức và nguyên liệu giống như bánh lễ dùng trong nhà thờ. Bánh này cũng được gởi đến những người thân vắng nhà. Tên gọi của nó gọi là „opłatek” nghĩa là trao tặng. Phong tục này bắt nguồn từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo, như là cử chỉ nhớ lại Đêm Vượt Qua của Chúa Giêsu. Và cho đến nay, nó vẫn còn giữ tại Ba Lan vào mỗi đêm Vọng giáng sinh. Đối với trẻ em, có lẽ đây là đêm đẹp nhất trong năm, được ăn mặc những bồ đồ đẹp nhất, hòa với không khí huyền ảo và màu sắc.

CÓ BAO NHIÊU MÓN ĂN TRONG ĐÊM NÀY?


Theo truyền thống, các món ăn trong đêm này nên chuẩn bị theo số lẻ. Trong từ điển ngữ học Ba lan, Aleksander Bruckner viết rằng: „đêm vọng giáng sinh nơi thôn quê thông thường chuẩn bị các món ăn theo số lẻ: 5, 7, 9, 11; số 7 tượng trưng cho 7 ngày trong tuần, số 9 tượng trưng cho chín phẩm thiên thần… được phép làm 12 món biểu tượng cho 12 thánh tông đồ”. Số người ăn cũng phải được tính đến, nên là số chẵn, tránh số 13, vì là số không may mắn. Số này nhắc đến Tôma Ít-ca-ri-ốt trong Bữa tối Vượt Qua đã phản bội Chúa. Món khai vị sẽ là món súp nấm, súp cá, súp trái hạnh đào, súp củ cải đỏ. Sau đó là món cá, được chế biến theo nhiều kiểu khác nhau. Vào đêm Vọng giáng sinh, thịt không được dùng đến, vì là đêm chờ Chúa đến, phải ăn chay. Món chính sẽ là món mì ống và…các món tiếp đến.


KOLĘDA

Nói đến lễ Giáng sinh, ta không thể không nhắc đến các bài hát thánh ca giáng sinh. Tiếng Ba lan gọi là Kolęda, từ này có nguồn gốc từ tiếng la tinh „calendae” nghĩa là ngày đầu tiên của mỗi tháng trong niên lịch La mã.
Kolęda có hai nghĩa; nghĩa đầu tiên là bát hát thánh ca giáng sinh; nghĩa thứ hai là viếng thăm mục vụ của linh mục quản xứ, hay linh mục phó xứ đến từng gia đình trong xứ đạo trong suốt mùa giáng sinh. Thật khó mà xác định truyền thống này lần đầu tiên đến Ba Lan từ khi này. Có thể là từ thế kỷ XIII, khi các cha dòng Phanxicô đặt chân đến Ba Lan.
Trong đêm Vọng giáng sinh, người Ba Lan cùng nhau hát những bài thánh ca giáng sinh tại gia đình. Từ lâu phong tục này đã phổ biển trên toàn lãnh thổ Ba Lan. Các bài hát thánh ca giáng sinh cổ nhất, nổi tiếng nhất đã xuất hiện từ thế kỷ XV, phổ biến nhất trong những bài đó là bài „Anioł pasterzom mówił” „thiên thần báo tin cho các mục đồng”. Rồi kế đến các bài nổi tiếng ở thế XVII, XVIII mà đến nay vẫn còn hát đến đó là: „Wśród nocnej ciszy” „giữa đêm thanh vắng”, hay là „Bóg się rodzi” „Chúa sinh ra đời” và các bài kế tiếp sau này. Với các ca từ và làn điệu đem đến cho người tín hữu thêm phần thánh thiện và sống sắt. Thánh ca giáng sinh được mọi người yêu thích, từ người già đến con nít, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và cho đến nay kolęda vẫn còn giữ một vị trí quan trọng trong đời sống của người Ba Lan . Cũng có thể bắt gặp, nghe được những bài hát thánh ca không chỉ nơi thánh đường, nhà nguyện, gia đình nhưng còn những nơi công cộng qua những buổi hòa nhạc, và trên phương tiện truyền thông.
Thánh ca giáng sinh ba lan, có nội dung đặc biệt về trẻ thơ Hài Đồng Giêsu. Dù là Thiên Chúa, nhưng vì yêu nhân loại, Ngài đã hạ mình, trở nên phàm nhân để cứu độ con người. Người Ba Lan hát thánh ca giáng sinh từ lúc bắt đầu lễ Giáng sinh cho đến  ngày mùng 2 tháng 2, lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thánh.

PASTERKA

Truyền thống phong tục của ngày và đêm Vọng giáng sinh là thời gian dài nhất, được kết thúc với thánh lễ nửa đêm nơi nhà thờ. Mọi tín hữu đổ về các ngôi thánh đường để dự lễ. Thánh lễ nữa đêm tại Ba Lan được coi là đại lễ trong năm. Tiếng Ba lan gọi là Pasterka. Chuông nhà thờ được gióng lên với bài hát GloriaVinh danh Thiên Chúa trên trời…”. Lễ nữa đêm đã có từ thời Trung cổ và kéo dài cho đến thời nay. Không chỉ dự lễ nửa đêm, người Ba Lan còn có truyền thống hát thánh ca giáng sinh vào các buổi chiều tại nhà thờ với lòng sùng kính Chúa Hài Đồng Giêsu. Đây là một truyền thống sống động, mà cho đến nay nó vẫn còn giữ được vị trí quan trọng, nơi thôn quê cũng như thành thị.

Kính chúc quí vị mùa giáng sinh
AN LÀNH và THÁNH ĐỨC
trong CHÚA HÀI ĐỒNG GIÊSU!

  Vũ SVD
Giáng sinh 2010


Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2010

Tâm Tình Mùa Vọng

I- Mùa Vọng có ý nghĩa gì?
Mùa Vọng dịch từ tiếng La tinh "Adventus", có nghĩa là "đến". Vọng là mong đợi, mong chờ điều sắp đến. Mùa vọng được Giáo Hội ấn định 4 tuần lễ trước lễ Giáng Sinh (25 tháng 12) để các tín hữu Công giáo chuẩn bị Mừng ngày Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng trần.
- Mùa Vọng nhắc nhở cho mọi Tín Hữu Công giáo 4 nghĩa sau đây:
1- Mùa Vọng nhớ lại thời gian dân Do thái mong đợi Đấng Messia (Chúa Kitô) đến để "giải phóng" dân Israel khỏi ách tội lỗi. Ngài "đã đến" lần thứ nhất cách đây hơn 2 ngàn năm. Ngài đã giải phóng họ khỏi ách tội lỗi bằng giáo lý và cái chết của Ngài.
2- Mùa Vọng còn có ý nghĩa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" lần thứ hai vào ngày tận thế. Không ai biết được ngày giờ nào.
3- Ngày nay, mùa Vọng để dọn lòng mừng kỷ niệm lễ Chúa Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12.
4- Điều quang trọng nhất là nhắc nhở mỗi người cần "tỉnh thức, sẵn sàng" đón Chúa đến vào ngày tận thế đời mình (giờ chết), để Chúa đưa mình về Nước Chúa muôn đời.
II- Vòng hoa 4 cây nến, tượng trưng cho điều gì?
- 4 cây nến tượng trưng cho tuần trước lễ Chúa Giáng sinh, mỗi tuần đốt thêm một cây. Ba cây màu tím tượng trưng cho sám hối và một cây màu hồng dùng cho Chúa nhật thứ 3, nói lên niềm vui như Thánh Phaolô kêu gọi: Hãy vui lên... vì Chúa đang đến! Vòng hoa mùa vọng với cành lá xanh tượng trưng cho sự sống muôn đời. Hạt giống, trái hồ đào dùng để trang trí trên vòng hoa tượng trưng cho sự sống lại và những hoa trái tiêu biểu cho lương thực dồi dào của đời sống Kitô hữu. Nến tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô.
Ý nghĩa của Vòng hoa:


- Kể từ thời xưa cổ, một vòng hoa là tượng trưng cho sự chiến thắng. Hình tròn của vòng hoa là nhắc nhở cho chúng ta biết về tình yêu thương bất tận của Thiên Chúa, dành cho chúng ta.
Màu xanh lá cây chính là màu chỉ năm phụng vụ, vốn diễn tả về niềm hy vọng trong tình yêu thương bất diệt của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Những cành của cây thông quanh năm suốt tháng đều có màu xanh lá cây. Những cành cây lúc nào cũng có màu xanh này cùng gộp lại với nhau để hình thành nên một vòng hoa là nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng: Thiên Chúa và sự Mạc Khải của Ngài thì không bao giờ thay đổi, cũng giống như cây thông, lúc nào cũng xanh tươi vậy.
Có 4 cây nến được phân chia ra theo đúng khoảng thời gian của Mùa Vọng. Mỗi cây tượng trưng cho một trong "4,000 năm" mà Thánh Kinh được trao ban cho chúng ta kể từ khoảng thời gian mà Ông Adong qụy ngã vì tội lỗi cho đến khoảng thời gian sinh hạ ra Đấng Cứu Chuộc nhân loại.
Cây nến màu tím đầu tiên được thắp sáng lên vào ngày Chủ Nhật Đầu Tiên của Mùa Vọng và trong suốt tuần lễ đầu tiên đó. Màu tím tượng trưng cho khoảng thời gian chuẩn bị, và ăn năn hối cải, cũng như tượng trưng cho sự vương giả.
Vào Chủ Nhật Thứ Ba của Mùa Vọng, vốn được biết đến như là Chủ Nhật Vui, thì cây nến có màu giống như bông hồng được thắp sáng lên cùng với hai cây nến màu tím. Bông hồng tượng trưng cho sự mừng rỡ, sướng vui và niềm hân hoan sắp tràn dân của mọi người tín hữu. Đây là khoảng thời gian đặc biệt khi chúng ta hồ hỡi với niềm vui và sự rạo rực về việc Chúa Kitô sắp sửa đến với chúng ta trong hình hài của một Hài Nhi Bé Nhỏ.
Và cây nến màu tím cuối cùng sẽ được thắp sáng lên trong ngày Chủ Nhật Thứ Tư của Mùa Vọng ám chỉ đến việc chúng ta mãi sốt sắng và kiên trì hơn rất nhiều trong việc chuẩn bị cả thể xác, tâm hồn lẫn con tim để đón nhận Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh.
Mùa Vọng chính là mùa của Sự Đợi Chờ cùng với niềm Hy Vọng về Ánh Sáng của Chúa Kitô: Ánh Sáng của Cả Thế Giới !
Nguyện chúc cho mọi gia đình chúng ta có được một Mùa Vọng thánh thiện và hoàn toàn mới mẻ và sinh động hơn so với những Mùa Vọng đã qua!


Thứ Ba, 23 tháng 11, 2010

Khánh Thành Tượng Chúa Kitô Vua

Khoảng chừng vài chục ngàn người hành hương tuôn về thị trấn Świebodzinie, thuộc giáo phận Zielonogórsko-gorzowskiej, miền tây Ba Lan để tham dự lễ thánh thành tượng Chúa Kitô Vua được cho là cao nhất thế giới.


Tượng cao 33m, nhưng tính cả phần bệ cao 16m và vương miện cao 3m, hai sải tay là 25m, chiều cao tổng thể của toàn bộ công trình là 52,50m, nặng khoảng 440 tấn. Với chiều cao trên, tượng Chúa Giêsu tại Świebodzinie  đã vượt mặt bức tượng Chúa nổi tiếng Đức Kitô Cứu Chuộc, cao 30m, vốn là biểu tượng của thành phố Rio de Janeiro, Brazil.


Công trình bắt đầu xây dựng từ ngày 26 tháng 11 năm 2000 và cho đến nay nó đã được hoàn thành. Đây là một niềm tự hào cho người tín hữu Ba Lan.

Thứ Ba, 16 tháng 11, 2010

VÀI NÉT VỀ CÁC PHONG TỤC TẬP QUÁN Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU PHI


Lê Bích Ngọc
Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông

1. Bắc Phi 





Ở Ai Cập, đám cưới là một công việc mang tính gia đình và là sự kết hợp của hai cuộc đời, hai gia đình. Trong đám cưới, cô dâu luôn đóng vai trò đặc biệt và rất được coi trọng vì cô dâu chính là cây cầu nối giữa tổ tiên với thế hệ tương lai. Sở dĩ cô dâu được coi trọng hơn chú rể còn vì rất có thể sau này cô sẽ sinh ra một đứa trẻ đầy sức mạnh, cây đại thụ của gia đình. Người con gái Ai Cập kết hôn rất sớm, khoảng 12-15 tuổi. Thông thường thì anh em họ lấy nhau. ở thủ đô Cairô, đàn ông đến tuổi lấy vợ sẽ nhờ mẹ và chị em gái giúp đỡ hoặc tìm bà mối se duyên. Khi được người con trai hỏi cưới, người con gái sẽ thuê một người phụ nữ đứng ra thách cưới với nhà trai và thống nhất ngày tổ chức lễ cưới. .Đôi khi ngay sau khi thỏa thuận xong, đôi trai gái lấy nhau luôn mà không cần tổ chức lễ cưới. Còn nếu tổ chức lễ cưới thì vào đêm cuối của ngày được quyết định làm lễ cưới, chú rể và những người bạn sẽ mang một phần lễ thách cưới đến nhà cô dâu và hôn lễ được cử hành. Trong lễ thành hôn của mình, cô dâu và chú rể ngồi đối diện nhau và ngón tay cái bên phải đặt sát nhau, người đọc kinh Coran sẽ dùng chiếc khăn quấn hai ngón tay của cô dâu và chú rể vào với nhau và bắt đầu cầu nguyện cho họ. Tuy nhiên phải một số ngày sau đó chú rể mới đến đón cô dâu về nhà của mình, họ mới bắt đầu sống với nhau, khi đó bạn bè và gia đình mới đến chúc mừng họ.
Ở Môritani, con gái trước khi lấy chồng phải ăn uống tẩm bổ thật nhiều để cơ thể phát triển đến mức cao nhất. Một người phụ nữ to béo, eo to, cổ ngắn, ngực to, vai rộng được xem là một phụ nữ đẹp, quyến rũ. Không cần khuôn mặt xinh đẹp, vóc dáng thon thả mà chỉ cần có các tiêu chuẩn trên thì các cô gái Môritani được xem là những người phụ nữ có vẻ đẹp truyền thống nơi đây. Bất kỳ người đàn ông nào cũng tự hào khi cưới được một người vợ có đầy đủ các tiêu chuẩn này. Thậm chí, nếu cô nào không thể béo lên được là đồng nghĩa với việc cô không lấy được chồng. Vì vậy, những gia đình có con gái thì truớc khi con họ đến tuổi trưởng thành họ phải cho con gái ăn thật nhiều thức ăn được chế biến từ thịt và sữa bò cho tới khi nào thân thể cô gái phát triển rõ rệt có thể lấy chồng được mới thôi. Đám cưới của người Môritani không giống các nơi khác chỉ tổ chức 1-2 ngày, mà ở đây họ tổ chức liên tiếp 7 ngày và ngày nào cũng náo nhiệt, đông vui. Đám cưới chỉ kết thúc khi chú rể đưa cho bố mẹ vợ dây màu có xâu tiền trước mặt mọi người để nhận người thân. Mẹ vợ nhận sợi dây buộc vào cổ chân con gái để nói lên cuộc sống sau này phát đạt, viên mãn. Sợi dây này của người Môritani cũng giống như chiếc nhẫn cầu hôn của người phương Tây. Vì vậy, sau khi đám cưới kết thúc, cô dâu, chú rể vẫn sống riêng, phải đợi tới hai năm sau chú rể cùng bạn bè dắt lạc đà được trang điểm đẹp mắt tới đón, hai người mới chính thức sống bên nhau mãi mãi. Trong thời gian hai năm này, hai người vẫn thỉnh thoảng về ở với nhau. Sau khi cưới, hai người sống chung một tuần rồi ai về nhà nấy. Hai tháng sau họ gặp lại sống chung hai, bốn hoặc sáu ngày rồi lại chia tay. Hai hoặc bốn tháng sau họ lại gặp nhau sống với nhau ít ngày rồi lại thôi. Sở dĩ như vậy vì ở Môritani các cô gái trưởng thành rất sớm, 10 tuổi đã phát triển toàn diện và có thể lấy chồng, nhưng vì tuổi còn nhỏ, có nhiều chuyện cô dâu chưa hiểu nên chỉ sống với chồng vài ngày rồi lại về nhà mẹ đẻ để được mẹ dạy dỗ và hướng dẫn thêm. Cứ như vậy trong suốt hai năm gặp gỡ rồi lại chia tay, sống chung ít sống riêng nhiều, cô dâu đã dần dần trưởng thành và có nhiều kinh nghiệm để tự xử lý những tình huống xảy ra trong cuộc sống. Còn việc tại sao cô dâu, chú rể chỉ chọn các ngày tháng chẵn để gặp và sống với nhau là vì người dân Môritani rất tin vào những con số chẵn, họ cho rằng các số chẵn thể hiện sự may mắn, tốt lành, nên làm bất kỳ công việc gì họ cũng nhất nhất chọn những ngày mang số chẵn.
Tại vùng Tualaji của xứ sở Libi có một phong tục rất lạ. Phong tục này được lưu giữ từ thời xã hội mẫu hệ và cũng ít nhiều liên quan tới hôn nhân. Đó chính là phong tục đàn ông che mạng. Che mạng là một nét văn hoá của người châu Phi, nhưng từ trước tới nay hầu như chỉ có người phụ nữ phải che mạng cho kín đáo để không bị người ngoài nhìn thấy. Còn ở Tualaji, những người đàn ông nào được coi là công dân tự do mới được che mạng. Đàn ông ở khu vực khác khi kết hôn với cô gái ở Tualaji phải ở rể và khi chuyển đến ở nhà vợ sẽ phải mang mạng che mặt. Có một điều đặc biệt mang dấu ấn mẫu hệ ở đây là đàn ông dù là công dân tự do nhưng lấy vợ nô lệ thì con cái sinh ra không đựoc coi là công dân tự do và không được phép che mạng. Còn phụ nữ có quyền tự do dù lấy chồng nô lệ nhưng khi sinh con thì con cái của họ vẫn được coi là công dân tự do và có quyền che mạng.


2. Đông Phi




Ở bộ tộc người Swahili tại Kênia, trước hôn lễ, cô dâu được tắm trong dầu và gỗ đàn hương rồi dùng nhựa cây lá móng (một loại cây có thể chế biến thuốc nhuộm tóc) trát lên chân và tay.

Người Swahili cho rằng làm như vậy sẽ xua đuổi được tà ma vất vưởng bên ngoài và ngăn không cho ma nhà cô gái đi theo. Sau khi tắm gội xong, một người phụ nữ lớn tuổi trong bộ lạc sẽ chỉ cho cô dâu cách làm vui lòng đấng phu quân của mình, thậm chí cả mánh khóe che dấu sự không còn trong trắng của mình trong đêm tân hôn và dạy cô dâu cách sống, cách đối nhân xử thế với những người trong gia đình nhà chồng.

Đối với bộ tộc người Masai, hôn nhân thường được sắp đặt trước và cô dâu phải cưới người đàn ông lớn tuổi hơn mình mà chưa bao giờ biết mặt. Gia đình cô gái sẽ chọn những người đàn ông phù hợp trong bộ tộc và đặt vấn đề. Nếu người đàn ông đồng ý cưới cô gái cùng với những sính lễ nhà gái yêu cầu thì hôn lễ sẽ được tổ chức ngay sau đó. Khi cô dâu chuẩn bị theo chú rể về nhà, bố cô dâu sẽ đặt tay lên đầu và ngực cô dâu để cầu chúc cho đôi vợ chồng trẻ hạnh phúc. Khi ra khỏi nhà, cô dâu không được phép quay đầu lại bởi theo thần thoại cô dâu sẽ bị hóa đá. Khi cô dâu đến cổng nhà chú rể, một người phụ nữ bên gia đình chồng đứng chờ sẵn ở cửa để mắng chửi cô dâu. Đây chính là một nghi lễ xua điềm xấu.

Tại vùng biển phía đông Kênia vẫn còn lưu hành tập tục hôn nhân đến ở rể nhà gái. Vì vậy, thay vì đón dâu như các khu vực khác thì ở đây mọi người tổ chức nghi lễ đón rể ở nhà gái và lễ tiễn chú rể ở nhà trai. Nghi lễ tiễn chú rể được tổ chức vào buổi tối. Khi tiếng trống, tiếng hát vang lên đoàn người vây quanh chú rể đưa đến nhà gái. Dẫn đầu sẽ là hai cô gái tay bê mâm cau trầu, mặc áo dài thật đẹp và sặc sỡ như hai con bươm bướm dẫn đường, cuối đoàn là cha mẹ chú rể. Đến cổng nhà gái, cha mẹ cô dâu bước ra nhận lễ và mời chú rể vào nhà. Khi chú rể bước vào phòng, việc đầu tiên là tìm cô dâu ngồi lẫn cùng bạn bè sau tấm rèm. Vì không nhìn thấy mặt cô dâu cho nên có khi chú rể nhận nhầm mấy lần khiến mọi người cười lên vui vẻ; chỉ khi thấy chú rể lo lắng và trở nên luống cuống một cô bạn sẽ giật dây bắc cầu tác thành cho hai người. Khi hai người nắm được tay nhau tấm rèm mới được kéo ra và khi ấy chú rể mới chính thức được xem là đã được đưa đến nhà.

Văn hóa ẩm thực của người Êthiôpia rất đặc biệt. Vì đa số đều coi Cơ đốc giáo là quốc giáo nên số ngày ăn chay chiếm số lượng đáng kể. Trước lễ phục sinh 40 ngày (thời kỳ đại trai), người dân ở đây mới có thể ăn thịt và các đồ tanh. Đây là khoảng thời gian tuyệt vời đối với những người nghiền ăn món thịt bò, đặc biệt là thịt bò sống. Đối với những người ở đây, thịt bò ngon phải là loại thịt mềm còn nóng hổi từ những con bò vừa bị giết. Có hai cách để ăn món thịt bò sống này. Cách thứ nhất là thái thịt còn đang dính máu tươi thành những miếng vuông, dùng dao nhỏ cắt lát thành miếng mỏng rồi trộn với bột ớt, để một lúc cho ngấm rồi ăn. Cách thứ hai là băm nát thịt tươi trộn thêm gia vị ăn kèm với bánh Inkila. Trong bữa ăn gia đình, người Êthiôpia không dùng bàn ghế mà dùng một cái sọt đan bằng sậy, bên trên đậy cái nắp phẳng giống như một cây nấm lớn. Trên nắp sọt bày bánh Inkila, đĩa thịt sống, bột ớt, tương ớt. Thông thường, họ ăn thịt bò trước rồi ăn bánh có phết tương ớt sau. Khi ăn, nếu ai để rớt tương ớt ra sọt hoặc xuống đất sẽ bị coi là hành vi thiếu lịch sự. Dùng thịt bò sống đãi khách là một trong những lễ nghi truyền thống của người Êthiôpia. Khi vào bữa ăn, nữ chủ nhân đưa đến trước mặt khách một đĩa đựng đầy thịt sống rồi gắp từng miếng đút cho khách. Khách chưa nuốt trôi miếng này chủ đã gắp miếng khác cho đến khi nữ chủ nhân cảm thấy đã bầy tỏ hết lòng hiếu khách mới thôi. Cách tiếp đãi thịnh tình này khiến khách không thể từ chối, bởi nếu không ăn khách sẽ bị coi là mất lịch sự với chủ nhân.


3. Tây Phi




Tại đất nước Nigiêria xinh đẹp, trước hôn lễ cả nhà trai và nhà gái sẽ tổ chức một bữa tiệc lớn. Trong bữa tiệc này, hai nhà làm quen với nhau và nhà trai tặng quà cho nhà gái. Sau bữa tiệc, cô dâu sẽ về sống với gia đình chồng. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ thì hôn lễ mới được tổ chức. ở một số bộ lạc của Nigiêria, người chồng không được phép gọi tên thật của vợ mình mà phải gọi bằng tên của bố vợ, ngoại trừ họ hàng và mẹ của hai người. Trước đám cưới, những người trong làng tập trung lại với nhau và hát mừng cô dâu chính thức đi lấy chồng. Cô dâu được đưa vào trong một túp lều nhỏ và ở trong đó cho đến khi chú rể vào và đám cưới kết thúc. Trước khi chú rể bước vào trong lều, chú rể còn phải làm một nhiệm vụ quan trọng: tặng quà cho hết lượt khách còn ở lại. Ngày hôm sau, trước khi đôi vợ chồng thức dậy và bước ra khỏi lều, người dân trong bộ tộc giết một con dê và lấy máu của nó tưới lên ngưỡng cửa của đôi vợ chồng trẻ. Mẹ cô dâu sẽ hỏi cô dâu có hài lòng với người chồng của mình không, sau đó mọi người ca hát, nhảy múa chúc mừng cho hai gia đình. Ai muốn xem mặt cô dâu phải trả một xu và muốn động vào cô dâu bằng một chiếc que đặc biệt phải trả thêm một xu nữa. Người ta cho rằng đây là dấu hiệu của may mắn.

Ở bộ tộc người Wodaabe của Nigiêria, khi đi hỏi vợ là những cô gái trong bộ tộc, tất cả anh em họ chưa có vợ sẽ đeo những chiếc bùa mà họ coi là có thể tăng sức hấp dẫn nhất và cùng đi hỏi cô gái. Đôi khi, những người anh em họ cùng được một cô gái để ý tới. Song khi cô dâu chọn được chú rể của mình rồi, những người anh em họ không được chọn vẫn được mời tới nhà chơi và nếu như cô dâu đồng ý, họ sẽ lên giường với nhau. Theo cách nghĩ của người Wodaabe, việc cô dâu ngủ cùng với những người anh em họ không có gì xấu và đáng chê trách bởi họ có cùng chung dòng máu với chú rể. Khi cô dâu không đồng ý thì những người anh em họ cũng vui vẻ ra về và tình cảm gia đình không hề rạn nứt.

Cách sống trọng tình nghĩa của người Mali còn được thể hiện qua phong tục ma chay của bộ tộc Dogon. Khi trong bộ tộc có người chết, các thành viên trong bộ tộc quấn thi thể bằng nhiều lớp vải rồi cột vào dây thừng, sau đó kéo lên vách núi cao hơn 90m để đến hang chôn tập thể. Người Dogon cho rằng khi thân thể người chết ở trên cao họ dễ dàng được siêu thoát hơn. ở trong hang chôn tập thể, linh hồn người mới chết sẽ được các linh hồn cũ dạy cho cách sống ở thế giới bên kia và linh hồn người mới chết sẽ không thấy cô đơn vì được sống cùng những linh hồn của những người trong bộ tộc đã mất trước đó. Cứ 12 năm một lần, người dân Dogon lại tổ chức lễ hội Dama kéo dài 6 tuần lễ để đưa những vong hồn còn lưu lại trong hang và vất vưởng quanh làng trở về thế giới bên kia.

Tại Ghana, nơi có bộ tộc Ashati – là bộ tộc lớn nhất và mạnh nhất được hình thành như một vương quốc thống trị tại nước này cách đây 300 năm vẫn duy trì ngôi vua. Cứ mỗi mười năm lại tổ chức một lễ hội linh đình để tái khẳng định sức mạnh của bộ tộc mình. Trong lễ hội này, vua Ashati đeo vàng đầy người, chỉ riêng hai cánh tay cũng phải cần bọn tùy tùng nâng hộ bởi cánh tay nặng trĩu toàn vàng… Khi vua đi diễu hành quanh bộ tộc, các thần dân tung hoa lên khắp các đường rước nhà vua đi. Ghana không chỉ đặc biệt ở lễ hội này mà ở đây còn một phong tục rất kỳ lạ: tục Trokosi (nô lệ tế thần) – đây là một phong tục có từ lâu đời: dâng nộp gái trinh đẹp phục vụ cho tù trưởng hoặc giáo sĩ. Phong tục này được đặt ra gần như là để xử phạt những gia đình phạm phải các tội như: trộm cắp, ngộ sát… Khi cống nạp thể xác một cô gái trinh nguyên trong gia đình cho thần linh, người tin rằng tội lỗi gây ra sẽ được gột rửa, thoát khỏi sự trừng phạt của những lời nguyền bí hiểm. ở từng nơi, phong tục này có những nét khác biệt riêng, nhưng các Trokosi ở đâu cũng phải chịu nỗi thống khổ như nhau. Có những gia đình không có con gái lớn phải dâng các bé gái chỉ mới một, hai tuổi. Các Trokosi già sẽ phải nuôi các bé này lớn lên và đến kỳ kinh nguyệt đầu tiên thì thực sự trở thành nô lệ tế thần đúng nghĩa với buổi lễ công nhận chính thức rồi sau đó – như tập tục lâu đời, vị giáo sĩ (được xem là hiện thân của thần) bắt đầu có quyền ăn nằm với nạn nhân bất cứ lúc nào ông ta muốn. Tại ngôi đền của giáo sĩ, các Trokosi - thậm chí lúc mang thai - vẫn làm lụng nặng nhọc, nai lưng làm lụng dưới cái nắng khủng khiếp trên các nương rẫy. Tuy làm lụng vất vả nhưng những cô gái này không được hưởng chút thành quả lao động nào. Thức ăn cô ăn hàng ngày và để nuôi con đều do gia đình cô chu cấp, dù đứa trẻ chính là con của giáo sĩ. Cay đắng hơn, khi Trokosi chết, gia đình cô phải tự lo ma chay chôn cất và trong nhiều trường hợp còn phải dâng nộp một gái trinh khác trong gia đình mình để thay thế cho Trokosi vừa chết. Đó là trường hợp các Trokosi được dâng nạp chưa kịp “phục vụ” giáo sĩ hoặc thời gian cô làm việc cho đền thờ chưa được một năm… Hiện nay trong một số ngôi đền ở Ghana, vài phụ nữ tế thần đã là thế hệ Trokosi thứ năm, họ vẫn câm lặng làm việc và cống nạp thân xác để trả giá cho một sai lầm hay tội lỗi gì đó mà gia đình đã phải chịu, dù lỗi lầm đó đã trải qua hàng chục năm thậm chí hàng trăm năm. Nếu Trokosi nào không chịu nỗi những cay đắng tủi nhục bỏ chốn mà bị bắt lại đều phải hứng chịu những trận đòn kinh hoàng và những ngày sau đó còn hơn sống trong địa ngục. Hiện nay ở một vài nơi tại Ghana, phong tục Trokosi đang bị phản ánh gay gắt. Những chiến dịch chống đối và nhiều trường học dành cho Trokosi được lập ra. Nhưng dù thế nào thì trên khuôn mặt của những cô gái nô lệ của thần linh đã hằn sâu sự bi ai và thống khổ tột cùng mà không liệu pháp tinh thần nào có thể xóa bỏ được. Theo thống kê, chỉ riêng ở 12 ngôi đền thuộc Ghana và Tôgô đã có tới 10.000 cô gái nô lệ của thần linh.

Ở châu Phi nói chung và Tây Phi nói riêng, phụ nữ luôn phải chịu những hủ tục nặng nề. Trong khi ở Ghana và một số nơi khác, tục Trokosi chưa bị xóa sạch, thì ở Xiêra Lêôn phụ nữ lại chịu tập tục tefoos (cắt bỏ âm vật). Tập tục này đã bám rễ rất lâu đời ở nhiều nước châu Phi, đặc biệt là ở Xiêra Lêôn. ở đất nước này còn thành lập hẳn hội Bundo – một tổ chức chiếm tới 90% phụ nữ ở đây. Bundo cương quyết chống lại một số ít phụ nữ có học dám chứng minh rằng tefoos đem lại nhiều bệnh tật cho phụ nữ: nhiễm trùng máu, uốn ván, hoại thư, tiêu khó, nhiễm trùng kinh niên bộ phận sinh dục ngoài, đau nhức xương chậu, mất chức năng sinh hoạt tình dục và đau đớn khi sinh… Đối với các thành viên Bundo, trẻ em gái phải thực hiện tefoos, nếu không họ chỉ là những người thuộc loại Ogborraka – bẩn thỉu và chẳng xứng đáng là con cháu của thần linh. Theo ghi nhận của Tổ chức Y tế Thế giới, hiện có khoảng 130 triệu phụ nữ ở ít nhất 22 nước châu Phi bị cắt âm vật và mỗi năm chừng 2 triệu trẻ gái phải chịu hình thức “phẫu thuật dã man này”. Tổ chức Y tế Thế giới đã chính thức xem tefoos là hành động phi nhân quyền. Tuy nhiên cho đến nay, ở Bundo thuộc Xiêra Lêôn và nhiều tổ chức khác tại châu Phi vẫn chống đối quyết liệt trước sự can thiệp nhằm xóa bỏ tập tục tefoos do phương Tây đã và đang khởi xướng mạnh mẽ từ đầu thập niên 1990.


4. Trung Phi




       Khác với Côngô, đám tang ở Camơrun được xem như một dịp để tổ chức lễ lạt. Lễ chôn cất được tiến hành vào buổi sáng, đó là một sự kiện long trọng được tiến hành để thể hiện sự kính trọng đối với người đã khuất. Buổi chiều thường được dành để cho bà con thân thuộc của người chết tụ họp với nhau. Các thành viên trong gia đình tụ họp mỗi người mang theo một ít rượu dừa hòa lẫn chung với nhau trong một bình mimbo lớn. Sau đó, những người tham dự cùng nhau uống thứ rượu được hòa chung đó như một cách biểu hiện sự đồng lòng của họ, vừa để tỏ lòng kính trọng người chết, vừa để xác định cùng nhau rằng cuộc sống vẫn đang tiếp tục. Theo tín ngưỡng truyền thống châu Phi, thứ tín ngưỡng có ảnh hưởng và thậm chí còn làm cơ sở cho Thiên chúa giáo trên lục địa này, thì giữa người chết và người còn sống vẫn còn có mối quan hệ chặt chẽ. Đám tang không được coi là điểm đến cuối cùng của một đời người. Điều đó giúp giải thích không khí lễ hội đặc trưng cho các hoạt động vào buổi chiều tối hôm tang lễ. Nếu người chết có một người họ hàng hay bạn bè có chân trong một ban nhạc thì đám tang nhất định sẽ trở nên sống động hơn nhiều với màn trình diễn của ban nhạc đó. Một đám tang được tổ chức chu đáo có thể kéo dài từ một đến ba ngày, và các điệu nhảy thường diễn ra suốt đêm.
      Ở Camơrun, người ta khó có thể tìm được một lễ hội nào tổ chức giống như lễ hội Giáng sinh, lễ Tạ ơn hay tết năm mới như ở các nước phương tây, Bắc Mỹ hay Trung Quốc. Mà ở đây có rất nhiều những lễ hội địa phương đa dạng lạ lùng dành cho vô số dịp hội hè, những giai đoạn quan trọng trong đời người. Chẳng hạn như để tưởng nhớ một vị tù trưởng vừa mới mất và vinh danh sự lên ngôi của vị tù trưởng mới thì ở miền Tây Camơrun có lễ hội tháng Tư. Trong lễ hội đó, một nghi lễ truyền thống là vị tù trưởng địa phương biến mất trong một cái hang và chỉ xuất hiện sau đó, khi một đám rước long trọng tiến đến nơi miệng hang để đón ông ta. Vị thầy bói trong làng đánh dấu lên trán những người tham gia lễ hội bằng một than củi trộn với nước, còn phụ nữ thì được một lá bùa giúp cho sinh được nhiều con hơn. Cũng trong tháng tư này, lễ hội hoàn tất việc thu hoạch được tổ chức. Lễ hội này được tổ chức để cầu cho mùa màng tươi tốt và phụ nữ sinh nhiều con cái. Ngày xưa trong lễ hội này, ta thường hiến tế dê. Các cộng đồng khác nhau có những nghi lễ theo tập quán khác nhau để đánh dấu những mùa vụ quan trọng trong đời sống nông nghiệp của mình. Một số tộc người đặt một chiếc bình đặc biệt để hở miệng ra ngoài trời nơi cánh đồng nhà mình. Những lễ vật nho nhỏ được dâng cúng để tỏ lòng kính trọng với vị thần của cánh đồng. Trước thời gian thu hoạch, để giữ cho muông thú và chim chóc khỏi phá hoại mùa màng, người ta cũng tổ chức nhiều lễ hội có trẻ em tham gia, chúng đeo những chiếc mặt nạ vẽ và trình diễn những điệu nhảy trên cánh đồng.

Vào tháng 12 hàng năm ở miền Tây Camơrun, người Bali còn tổ chức lễ hội Lêla. Lễ hội này tổ chức trong bốn ngày. Cũng như các lễ hội địa phương khác, lễ hội này là một sự kiện rất quan trọng đối với các thành viên trong cộng đồng người Bali. Vào những ngày này, những người nào sống và làm việc xa gia đình đều tìm cách trở về nhà tham gia lễ hội. Đó cũng là thời gian để gia đình đoàn tụ và gặp gỡ bạn bè nhằm thắt chặt thêm tình bằng hữu. Vị tù trưởng là trung tâm của sự chú ý trong suốt những ngày lễ hội. Trong ngày đầu tiên, ông ta cưỡi lên lưng ngựa đi đến con sông gần làng để hiến tế một con gà, dân làng đi theo ông ta. Nếu tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp thì các vị thầy bói sẽ khẳng định lại rằng các thần linh đã hài lòng và lễ hội có thể bắt đầu. Những ngày tiếp theo sẽ tràn đầy các màn nhảy múa, tiệc tùng và các cuộc thi bắn súng. Trong các ngày lễ hội này mọi người đều mặc những bộ quần áo đẹp nhất của mình.

Tại vùng cao nguyên phía tây hay còn gọi là miền đồng cỏ có hai tộc người Bamileke và người Tikar sinh sống. Hai tộc người này có nghệ thuật chạm khắc rất tinh tế. Họ chạm khắc những mặt nạ và hình người bằng gỗ và ngà voi. Những môtip chạm khắc phổ biến là hình đầu người, thường có dạng to bẹt, miệng há rộng và hình những con thú như: voi, cá sấu báo và rùa. Nhện, một sinh vật quan trọng trong phép bói toán, cũng là một trong những môtip hay được sử dụng. Những hình tượng chạm khắc rất cầu kỳ thường để trang trí cho các cây cột trong ngôi nhà truyền thống. Các cây cột được bố trí dàn ra hai bên lối vào ngôi nhà. Những đồ vật gia dụng khác như giường và chân giường, các chiếc cốc bằng sừng để uống rượu… cũng được chạm khắc rất tinh xảo. Các vị tù trưởng thường sở hữu những chiếc ngai và ghế chạm khắc rất cầu kỳ.

Trong nền văn hóa truyền thống của người Bamileke, chỉ có tù trưởng và những nhân vật có địa vị cao mới được phép đeo mặt nạ hình đầu voi trong các lễ hội và các dịp thờ cúng. Con voi được coi là một trong những con thú hùng mạnh nhất của vùng đất này, là biểu tượng cho địa vị và của cải của các tù trưởng địa phương và các ông vua. Trong một vài truyền thuyết, vị tù trưởng có một quyền năng thần kỳ: có thể biến thành voi. Đi kèm với chiếc mặt nạ là một bộ trang phục cầu kỳ, được trang trí cho mọi người ai cũng phải chú ý đến địa vị của người mặc nó. Ngoài ra, còn có các chuỗi hạt thủy tinh, một thứ tài sản được lưu truyền lại từ thời buôn bán nô lệ khi chúng đóng vai trò như một thứ tiền tệ.

Tại miền bắc Camơrun, hàng năm vẫn tổ chức lễ hội hóa trang. Hội hóa trang này cũng có thể tổ chức nhân những sự kiện đặc biệt như chào đón cuộc viếng thăm của một nhân vật đặc biệt nào đó. Những hình ảnh về lễ hội hóa trang được trình bầy trên các tờ quảng cáo du lịch có thể khiến người ta có ấn tượng đó là một cuộc đua ngựa, nhưng đó không phải là một cuộc tranh tài. Hàng trăm con ngựa có thể tham gia lễ hội cùng với các kỵ mã, chúng được mặc những bộ trang phục lóng lánh, sặc sỡ. Đây là một lễ hội công cộng và là một dịp để nhảy múa, chơi nhạc.

  
5. Nam Phi




         Ở Namibia, trước khi lễ cưới diễn ra, chú rể người Himba và một số người thuộc nhà chồng sẽ bắt cóc cô dâu và diện cho cô ta bộ áo cưới bằng da. Khi cô dâu đến nhà mới của chú rể, họ hàng anh ta chỉ cho cô ta biết trách nhiệm làm vợ và bày tỏ sự chấp thuận gia đình bằng việc bôi lên người cô dâu loại sữa bò béo. Còn đối với người Ndebele, đám cưới phải trải qua ba bước. Bước cuối cùng có thể mất nhiều năm. Bước đầu tiên là đàm phán về thách cưới với gia đình nhà gái và khoản thách cưới đó được trả dần bằng tiền và gia súc. Bước thứ hai, cô dâu được cho ra ở riêng hai tuần, trong thời gian đó một người phụ nữ khác sẽ chỉ cho cô dâu cách làm một người vợ tốt. Bước thứ ba, lễ cưới chỉ được tiến hành khi cô dâu sinh được con đầu lòng. Tại cộng hòa Nam Phi, người dân rất hãnh diện với những lễ hội của mình và họ rất háo hức tham gia vào những sự kiện đặc biệt này. Một trong những sự kiện văn hóa quan trọng nhất của Nam Phi là liên hoan nghệ thuật Grahamstow, được tổ chức hàng năm vào tháng Bảy và kéo dài trong khoảng hai tuần lễ. Festival này nổi bật ở chỗ nó có đủ tất cả loại hình nghệ thuật biểu diễn, từ những vở kịch chống chế độ Apartheid đến kịch Shakespeare, múa bale, kịch câm, tạp kỹ và múa. Các bộ phim nước ngoài cũng được trình chiếu trong khi những nghệ sĩ địa phương trưng bầy các tác phẩm của họ. Du khách và dân địa phương đắm mình trong bầu không khí sáng tạo nghệ thuật bao trùm thành phố. Những màn biễu diễn ấn tượng nhất thường được tổ chức bên ngoài các địa điểm chính của festival, nơi các nghệ sĩ nghiệp dư biểu diễn với giá vé vào xem rất rẻ. Nhiều nghệ sĩ, tác giả và nhạc sĩ nổi tiếng nhất Nam Phi đã khởi đầu sự nghiệp lẫy lừng của họ từ festival Grahamstown. Vẻ độc đáo của thành phố cũng đóng góp vào thành công to lớn của ngày hội. Tiền thu được ở lễ hội dành để tài trợ cho giới nghệ sĩ, và hàng năm nhiều giải thưởng đã được trao trong các lĩnh vực điêu khắc, opera, âm nhạc và balê. Nhưng điều quan trọng hơn cả là festival này được mọi người đến với nhau trong không khí ngày hội, không phân biệt màu da, sắc tộc. ở Nam Phi, tết năm mới cũng được tổ chức linh đình như ở nhiều nước khác. Lễ lạt diễn ra ngoài trời, có picnic, tiệc ngoài trời và bơi lội. Bãi biển luôn đông nghẹt người. Tết năm mới ở Nam Phi rơi vào mùa hè, trong khi những nước thuộc Bắc bán cầu là mùa đông. ở Cape Town, người Nam Phi đón mừng ngày tết Tweedenuwejaar (năm mới lần hai) vào ngày mùng một và mùng hai tháng giêng. Ngày tết này ra đời từ lễ hội Carnival Coon hàng năm do nhóm Capecoons đứng ra tổ chức và biểu diễn. Các nghề sĩ này vẽ mặt mày, đội nón và mặc trang phục nhiều màu sắc. Các nghệ sĩ dẫn đầu một đám rước đường phố vui nhộn, vừa đi vừa nhảy múa và hát những bài ca ứng khẩu. ở Nam Phi, lễ Giáng sinh và Phục sinh là những ngày lễ chính thức và mọi người được đều được nghỉ làm. Lễ Giáng sinh được tổ chức tương tự như ở các nước khác, chỉ có điều Noel lại rơi vào mùa hè, vì thế nhiều người ở đây đã chọn cách dọn một bữa tiệc ngoài trời thay vì một bữa ăn truyền thống trong nhà. Một số gia đình đi lễ nhà thờ, còn người dân thì mua những đồ ăn xa xỉ tùy theo túi tiền của mình, một cây thông Noel và quà Giáng sinh cho gia đình và bạn bè. Đa số tín đồ Kitô giáo đi nhà thờ vào ngày chủ nhật phục sinh để tỏ lòng kính chúa Jesus phục sinh. Những quả trứng phục sinh làm bằng chocolate được đem giấu cho trẻ con đi tìm, những chiếc bánh ngọt có hình cây thánh giá được đem ra ăn vào ngày chủ nhật Phục sinh. Thành phố Roodepoort tự hào là nơi tổ chức cuộc thi quốc tế Roodepoort Eisteddfot. Được tổ chức hai năm một lần vào tháng mười, Roodepoort Eisteddfot là cuộc thi tài âm nhạc quốc tế lớn nhất ở Nam Bán cầu. Khoảng 8000 người từ hơn 60 quốc gia đến tranh tài trong ngày hội văn hóa này. Tiết mục dự thi gồm những thể loại như đồng ca, thanh nhạc, nhạc cụ, hát múa nhạc dân gian, ban nhạc, dàn nhạc giao hưởng và các bản nhạc mới sáng tác. Lễ hội này thu hút người dân khắp nơi trên đất nước Nam Phi, vì cuộc thi luôn có sự tham gia của những tài năng âm nhạc xuất sắc từ các địa phương trong nước. Du khách từ các nơi trên thế giới cũng đổ về Nam Phi chỉ để được tham dự festival Roodepoort Eisteddfot. Điểm thu hút chính của cuộc thi luôn là những ca đoàn của nhà thờ của người da màu và da đen với những giai điệu độc đáo và những chất giọng tuyệt vời. Ngày hội Majuba thường được tổ chức vào ngày 27 tháng Hai. Lễ hội này là để kỷ niệm ngày người Anh bại trận dưới tay người Boer tại Majuba Hill, một ngọn núi nằm trên đường biên ngăn cách hai vùng Natal và Transvaal. Một liên hoan Concerto hàng năm dành cho những nhạc sĩ trẻ biểu diễn nhạc cổ điển. Ngoài ra, còn có liên hoan các dàn đồng ca thanh niên Afrikaner hàng năm. Festival âm nhạc Tretoria do hội nhạc sĩ Nam Phi tổ chức, cũng là một liên hoan âm nhạc nội tiếng. Cộng đồng người gốc á cũng có nhiều lễ hội tôn giáo và thế tục truyền thống. Người Hindu ấn Độ kỷ niêm lễ hội Deepavali (ánh sáng) vào tháng mười hay tháng mười một để mở đầu năm mới truyền thống của mình. Người Cape Malay và người theo đạo Hồi tuân thủ nghi thức ăn chay hàng ngày trong tháng Chay Ramadan thiêng liêng. Mùa chay kết thúc vào tháng Ramadan với một lễ hội tưng bừng, thực khách thoải mái thưởng thức những món ăn truyền thống, như bánh gối, cari, bánh rán chilibite. Trong tháng chay linh thiêng, tín đồ Hồi giáo đi lễ ở các thánh đường với trang phục lễ hội.

Nguồn: http://www.tinmoi.vn