Trang

Thứ Sáu, 24 tháng 12, 2010

Thư tống tiền Chúa

Sưu tầm

Giáng Sinh sắp đến rồi và Sammy rất muốn mẹ mua cho cậu một chiếc xe đạp. Mẹ cậu nói rằng tốt nhất là cậu nên viết thư cho ông già Noel hỏi xin. Nhưng Sam nói rằng cậu thích viết cho Chúa Jesu hơn, và mẹ cậu bảo thế cũng được.
Sam đi về phòng và viết: "Chúa kính mến, con là một cậu bé ngoan và con thích một chiếc xe đạp vào dịp Giáng Sinh".
Nhưng khi đọc lại Sam không hài lòng. Cậu quyết định viết lại: "Chúa kinh mến, con là một cậu bé ngoan ơi là ngoan, và con thích có một chiếc xe đạp vào dịp Giáng Sinh lắm!".
Vẫn không thấy được. Cậu viết lần nữa: "Chúa kính mến, nếu con cố gắng, và nhất là nếu con có một chiếc xe đạp mới, thì con hẳn đã là một cậu bé ngoan rồi".
Lần viết thứ ba này Sam vẫn thấy chưa ưng ý. Vì thế cậu bước ra ngoài đi dạo một chút cho tỉnh táo và để nghĩ cách viết sao thuyết phục nhất. Đi một lúc, Sam bước ngang qua một ngôi nhà nhỏ có bức tượng Đức mẹ Đồng Trinh trong vườn trước. Cậu bò vào, lấy áo khoác trùm lên bức tượng, sau đó ôm bức tượng chạy vù về nhà, giấu xuống gầm giường. Cậu hăm hở cầm bút viết thư cho Chúa: "Thưa Chúa, nếu ngài muốn gặp lại mẹ của ngài, thì hãy mang một chiếc xe đạp đến đây!".

Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2010

Những Câu Chuyện Giáng Sinh

Christmas Day - Lịch sử lễ Giáng Sinh
Sưu tầm



Chữ Giáng Sinh có nguồn gốc từ tiếng La tinh - chữ Natalis - nghĩa là ngày sinh ra đời. 

1. NGUỒN GỐC
Tại thành phố Roma - Ý đã có một buổi lễ được tổ chức vào ngày 25 tháng 12 từ một thế kỷ trước kỷ nguyên Thiên Chúa . Người dân La Mã làm lễ tôn thờ Mirthra, gốc Ba Tư, được mang vào Roma bởi những người lê dương La Mã. Mirthra là vị thần ánh sáng của người Ba Tư . Lễ vào ngày 25 tháng 12 là ngày điểm chí của mùa đông, sự ra đời của Mirthra tượng trưng cho sự bất bại của mặt trời (Dies natalis solis invicti). Trong buổi lễ người ta cúng thần bằng một con bò rừng nhỏ.
Năm 274, hoàng đế La Mã Aurélien tuyên bố việc tôn thờ thần Mirthra là quốc giáo và lấy ngày 25 tháng 12 để cử hành lễ.
Lễ Noël chưa xuất hiện vào thời kỳ đầu của đạo Thiên Chúa. Chỉ từ vào thế kỷ thứ II sau nhiều lần tìm tòi để có thể lấy một ngày nào đó trong năm làm ngày ra đời của Chúa Jésus vì không tìm thấy một dấu vết nào đề cập đến việc này trong các sách Phúc Âm. Nhiều ngày, tháng đã được đề nghị như ngày 6 tháng Giêng, ngày 25 tháng 3, ngày 10 tháng Tư…nhưng vẫn không dẫn đến một quyết định dứt khoát nào.
Tại La Mã, Giáo hội Thiên Chúa đã chọn ngày 25 tháng 12 làm ngày sinh của Chúa Jésus chắc chắn không hẳn không có hậu ý đối với buổi lễ cổ truyền tại đây : lễ kỷ niệm ngày sinh của thần “tà giáo” Mirthra. Vào những năm 330 hay 354, hoàng đế La Mã Constantin quyết định lấy ngày Noël là ngày 25 tháng 12.
Năm 354, Giáo hoàng Libère ấn định cử hành lễ vào ngày 25 tháng 12. Ngày này đã có một giá trị tượng trưng vì theo Malachie 3/19 và Luc 1/78 người ta xem như sự hiện diện của Chúa Cứu Thế như một sự mở màn cho “mặt trời của công lý”. Như thế buổi lễ Noël cũng là ngày sinh của Jésus mặt trời công lý.
Buổi lễ vào ngày 25 tháng 12 dần dần phát triển về phương Đông và vùng Gaule (Pháp ngày xưa) : vào năm 379 tại Constantinople, đầu thế kỷ thứ V tại đất Gaule, trong thế kỷ thứ V tại Jérusalem và vào cuối thế kỷ thứ V tại Ai Cập. Các giáo hội Đông Phương vào thế kỷ thứ IV cũng cử hành lễ dười nhiều hình thức khác nhau vào ngày 6 tháng Giêng để biểu dương cho Thượng đế.

2. LỊCH SỬ NGÀY NOËL ĐẾN CUỐI THỜI TRUNG ĐẠI
Hoàng đế La Mã Théodore vào năm 425 đã nguyên tắc hoá những nghi lễ cho Noël . Buồl lễ vào ngày 25 tháng 12 đã trở nên đặc biệt dành cho những người theo Thiên Chúa Giáo. Clovis được rửa tội vào đêm Noël năm 496. Năm 506, hội nghị Giám mục Agle đã ấn định ngày lệ này như một nghĩa vụ phải có. Năm 529, hoàng đế La Mã Justinien đã ban hàng chỉ thị là ngày nghỉ được trả lương.
Buổi lễ nhà thờ vào nửa đêm được cử hành từ thế kỷ thứ V dưới triều đại của Giáo Hoàng Grégoire Le Grand.
Vào thế kỷ thứ VII, một tục lệ đã được ấn định tại La Mã để cử hành 3 buổi lễ : lễ trọng vào chiều ngày 24 tháng 12, lễ vào buổi sáng và ngày 25 tháng 12 tại các nhà thờ.
Ngày lễ Noël được lan tràn khắp Âu châu : Thế kỷ thứ V tại Ailenn thế kỷ thứ VII tại Anh quốc, thứ VIII tại Đức, thử IX tại các quốc gia vùng Bắc Âu , thứ IX và X tại các quốc gia vùng Xla-vơ.
Kể từ thế kỷ thứ XII, nghi thức tôn giáo được cho kèm thêm những “thảm kịch” lễ bái, những “bí mật” được dàn dựng cảnh tôn thờ của những mục đồng hoặc đám rước những vị đạo sĩ ba tư (mage). Những “thảm kịch lễ bái ” này được trình diễn đầu tiên trong ngay nhà thờ rồi sau đó được đem ra sân trước nhà thờ.

3. LỄ NOËL TỪ THỜI PHỤC HƯNG
Những màng cỏ xuất hiện trong nhà thờ tại Ý đại lợi từ thế kỷ thứ XV và cây Noël tại Đức vào thế kỷ thứ XVI. Sau đó được lan đến các gia cư vùng Na-pô-li rồi các vùng miền Nam nước Pháp từ thế kỷ thứ XVII.
Trong thời kỳ phục hưng vào năm 1560, những người Tin Lành chống đối với sự hiện diện của máng cỏ và họ ưa chuộng phong tục cây Noël hơn. Cùng với sự đối kháng trong giai đoạn phục hưng vào thế kỷ thứ XVII, những trình diễn “thảm kịch lễ bái” đã bị cấm chỉ vì trở thành quá “phàm tục” một cách quá đáng.
Ngày nay, lễ Noël đã trở thành một buổi lễ dành cho trẻ em và gia đình.

4. Ý NGHĨA CỦA NGÀY NOËL
Ngoài ý nghĩa theo đạo Thiên Chúa, Noël là một ngày lễ gia đình, một ngày đặc quyền để tụ tập quây quần mọi người, mọi thế hệ trong gia đình. Lễ này dưới mọi hình thức được biểu lộ, tạo những kỷ niệm chung và duy trì tình cảm giữa mọi người trong gia đình. Mỗi người tìm được, bằng cách thức riêng của mình, để tạo dựng mối liên hệ : chia sẻ với nhau một bữa ăn chung, một đêm không ngủ, nghe thuật lại một câu chuyện, quây quần bên cạnh cây sa pin Noël… Với địa vị ngày càng lớn lao của trẻ con trong gia đình, ngày Noël trở thành một buổi lễ của trẻ em : một đêm thần diệu mà hầu như tất cả mọi ước nguyện trẻ con được thành sự thật trong sự sung sướng của những người lớn.
Ngày Noël cũng là một thông điệp của hoà bình : “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người Chúa thương.” đây là câu được hát bởi những Thiên Thần báo tin sự xuất hiện của Vị Cứu Thế và Noël cũng là ngày người ta chia sẻ với những ai bị bỏ rơi, bị cô đơn, bệnh hoạn, già yếu…

Thứ Ba, 14 tháng 12, 2010

Những Biểu Tượng Noel

VÒNG LÁ MÙA VỌNG



Vòng lá mùa vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy. Cây xanh thường được trang hoàng trong các bữa tiệc của dịp Đông chí - dấu hiệu của mùa đông sắp kết thúc. Trên vòng lá đặt 4 cây nến. Tục lệ này khởi xướng bởi các tín hữu Pháo Lutheran ở Đức vào thế kỉ XVI để nói lên sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối
Vòng lá có hình tròn nói lên tính cách vĩnh hằng và tình yêu thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh lá nói lên hi vọng rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến cứu con người. Bốn cây nến bao gồm ba cây màu tím - màu của Mùa Vọng - tượng trưng cho sự Sám Hối, và một cây màu hồng, là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng (Gaudete Sunday).

THIỆP GIÁNG SINH 

Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole, một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ John Calcott Horsley, một họa sỹ ở London, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kì người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.


QUÀ GIÁNG SINH


Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bè bạn. Đối với một số người, những món quà Giáng Sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Chúa Giêsu, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người.
Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethelehemtrong một cái máng cỏ, ba vị vua phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, trầm hương và mộc dược. Vàng tượng trưng Chúa Giêsu là vua ( tức con Chúa Cha - Vua Nước Trời), trầm hương tượng trưng Chúa Giê-su là Thiên Chúa và mộc dược biểu hiện hình ảnh Chúa Giê-su bị đóng đinh trên cây thánh giá hay nói rõ hơn là sự chịu chết của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.
Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giê-su hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.
Ông già Noel thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc tất.

NGÔI SAO GIÁNG SINH



Các ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rực rỡ đủ mầu sắc trong mùa Giáng sinh, các nhà thờ đều có treo vô số ngôi sao 5 cánh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía, có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt.
Ngôi sao trong lễ Giáng Sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì trên trời xuất hiện một ngôi sao rực rỡ . Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm còn nhìn thấy. Từ các vùng phía Đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran và Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua. Từ đó ba vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được hang đá thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các phẩm vật trầm hương và châu báu vàng bạc.
Ngôi sao trở thành biểu trưng ý nghĩa trong mùa Giáng Sinh và được treo chỗ trang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đêm Giáng Sinh để nhớ đến sự tích trên. Do ý nghĩa ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng Đế.

CÂY TẦM GỬI VÀ CÂY ÔRÔ (CÂY NHỰA RUỒI)



Hai trăm năm trước khi Chúa Jesus ra đời, người ngoại đạo dùng cây tầm gửi để kỉ niệm ngày Mùa Đông đến. Họ thường dùng nó để trang trí trong ngôi nhà của mình. Họ tin rằng loại cây này có một khả năng chữa trị đặc biệt đối với mọi loại bệnh tật.
Những người dân ở đảo Xcăngđinavi cũng coi cây tầm gửi là biểu tượng của hoà bình và sự hoà thuận. Họ còn đồng nhất cây tầm gửi với nữ thần tình yêu của họ là thần Frigga. Phong tục hôn nhau  dưới bóng cây tầm gửi hẳn là xuất phát từ niềm tin này.
Lúc đầu nhà thờ cắm sử dụng cây tầm gửi trong lễ Giáng Sinh vì nguồn gốc ngoại đạo của nó. Thay vào đó, cha đạo đề nghị dùng cây ô-rô (Cây nhựa ruồi) làm loại cây dùng cho lễ Giáng Sinh.
Ý nghĩa của vòng tầm gủi và vòng ô rô: tượng trưng cho mão gai của Chúa Giê-xu. Hạt ô rô màu đỏ giống như máu của Ngài.

CÂY GẬY KẸO


Vào những năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của lễ Giáng Sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo. Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi kẹo của mình thành hình một chiếc gậy kẹo. Qua cây gậy kẹo của mình, ông đã kết hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hi sinh của Chúa Jesus. Màu trắng biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của Chúa Jesus. Ba sọc đỏ nhỏ tượng trưng cho những đau đớn mà Đức Chúa Jesus đã phải chịu trước khi Ngài chết trên thập tự giá. Ba sọc đỏ còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh Thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà Chúa đã đổ cho loài người. Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt cây gậy của người chăn cừu vì Chúa Jesus chính là người chăn dắt con người. Nếu bạn lật ngược cây gậy nó sẽ trở thành chữ J là chữ cái đầu tiên của tên Chúa Jesus. Nhờ có người thợ làm kẹo đó mà mọi người đều biết được lễ Giáng Sinh nói về điều gì.

BÁNH BÛCHE DE NOËL



Bánh Bûche de Noël là một loại bánh theo truyền thống kiểu Pháp được sử dụng trong dịp lễ hội Giáng sinh. Chiếc bánh này thường được chuẩn bị và trang hoàng như là một khúc củi dùng để đốt trong lò sưởi. Chiếc bánh bûche truyền thống được làm từ bánh nướng xốp, cuộn lại thành hình trụ tròn sau đó được phù kem bề mặt và xung quanh. Thông dụng nhất là loại bánh nướng vàng, phủ kem sô-cô-la. Bánh Bûche thường được dùng bằng cách cắt lát như là cưa từng khúc cây vậy. Những chiếc bánh Bûche ngày nay được trang hoàng bởi bột đường trắng giống như tuyết, trái cây tươi, và những cái nấm được làm bằng kem đường.
Có một tục lệ  trong đêm trước Giáng sinh, người ta hay chặt một khúc cây lớn và đem vào nhà để làm lễ. Khúc cây sẽ được đặt trên lò sưởi, người chủ nhà làm lễ dâng rượu bằng cách rắc lên khúc cây một ít dầu, muối, và rượu nóng, và đọc lên những lời cầu nguyện. Trong một vài gia đình, người con gái trẻ trong gia đình sẽ nhóm lửa đốt khúc cây bằng một ít gỗ vụn mà họ đã chuẩn bị và cất giữ từ năm trước. Ở một số gia đình khác thì người mẹ được ưu tiên thực hiện động tác này. Tương truyền rằng những bột than có từ khúc cây đã cháy này sẽ bảo vệ cho ngôi nhà khỏi tránh được thiên tai và sự xâm nhập của ma quỷ. Những chọn lựa về các loại gỗ khác nhau, cách đốt khúc cây và khoảng thời gian để làm nghi thức này thay đổi tùy theo những vùng khác nhau.
Từ thế kỷ 12 tục lệ này được áp dụng ở hầu hết các quốc gia tại Châu âu, đặc biệt tại Pháp và Italia. Tục lệ này vẫn còn được duy trì ở Quebec như trước đây cho đến những năm cuối thế kỷ 19. Sau đó nó dần biến mất đi khi những lò sưởi đá lớn được thay thế bởi những lò sưởi hiện đại bằng kim loại. Những khúc cây lớn được thay thế bởi những khúc cây nhỏ hơn, được trang trí xung quanh bằng những ngọn nến và cây cỏ, đặt giữa bàn như là một vật trang trí.
Ngày nay, bánh khúc cây Giáng sinh đã trở thành một món bánh ngọt truyền thống, được phủ bởi kem cà phê hoặc sô-cô-la và trang trí đẹp mắt.

QUÀ TẶNG TRONG NHỮNG CHIẾC BÍT TẤT



Tương truyền rằng, nhà kia có 3 cô gái đến tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của 3 cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống đúng các đôi bít tất mà các cô treo hong bên lò sưởi. Khỏi phải nói cũng biết rằng các cô vui mừng đến mức nào. Họ đã có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình.





HANG ĐÁ



Chúa sinh ra trong một hang đá nhỏ, nơi máng cỏ của các mục đồng chăn chiên tại thành Bethelem. Ngày nay, vào đêm 24/12 tại các giáo đường đều có hang đá với máng cỏ, bên trong có tượng Chúa Hài đồng, tượng Đức mẹ Maria, chung quanh có những con lừa, tượng Ba Vua, một số thiên thần, Thánh Giuse trên mái nhà có ánh sáng, chiếu từ một ngôi sao hướng dẫn ba vua tìm đến với Chúa. Mọi người đều hướng về Chúa nhân từ, cầu nguyện Chúa cứu rỗi cho nhân loại tránh khỏi chiến tranh, nghèo đói và bất hạnh.
Theo tập tục bên Đông phương: máng cỏ, nôi Chúa nằm lúc sinh ra, được làm bằng đá có hình thể trông giống như một quan tài. Và hài nhi Giêsu được quấn khăn tã đặt nằm trong đó như xác một người qua đời.
Hình ảnh này muốn diễn tả Chúa Giêsu sinh ra trong hang đá và lúc qua đời cũng được mai táng trong mồ đá. Trong hang đá sự sống đã khởi đầu khi Chúa Giêsu sinh ra làm người và cũng trong mồ đá Chúa Giêsu đã sống lại, khởi đầu một đời sống mới. Đời sống cứu độ.
Nghệ thuật cùng tập tục bên phương Tây xây dựng hang đá máng cỏ như một bàn thờ. Hình ảnh này muốn diễn tả lễ tế Tạ ơn, Bí tích Thánh Thể. Bethlehem có nghĩa là "nhà làm bánh mì“. Khi cử hành Bí tích Thánh thể là tưởng nhớ lại sự sinh ra làm người của Chúa khi xưa trong hang đá ngoài cánh đồng Bethlehem. Và trong mỗi Thánh lễ chúng ta cùng tiếp nhận Tấm Bánh Thánh thể từ trời cao, ngày xưa đã sinh xuống trên đồng Bethlehem "ngôi nhà làm bánh mì“, là lương thực cho niềm tin vào Chúa.
Hang đá máng cỏ vì thế không nhất thiết phải bằng đá thiên nhiên, nhưng đa số làm bằng gỗ. Trong đó Chúa Giêsu được đặt nằm trên rơm cỏ, có đàn súc vật bò lừa ngồi nằm thở hơi ấm chung quanh. Hình ảnh này nói lên sự khó nghèo, khiêm hạ của Chúa.
Thánh Phanxicô thành Assisi năm 1223 ở vùng Walde von Grecco đã cùng với các anh em Dòng của ngài dựng làm ra hang đá Chúa giáng sinh đầu tiên dựa theo những lời thuật lại trong phúc âm về đêm Chúa sinh ra năm xưa và theo kiểu ru con trong một chiếc nôi.
Nhạc điệu và nôi ru con là một hình thái rất phổ thông được qúy trọng trong dân gian. Và từ thế kỷ 14 xuất hiện nhiều kiểu hang đá Chúa giáng sinh theo hình thức này. Hài nhi Giêsu được đặt trong một máng như một nôi cho em bé nằm, trong đó có lót cỏ rơm khô cho êm ấm, có Mẹ Maria và Thánh Giuse đứng bên cạnh. Chung quanh là các thú vật bò, lừa, cừu, các mục đồng đến thăm viếng trò truyện, trên cao chỗ tường vách có Thiên Thần bay lượn ca hát.
Hình ảnh này thật đẹp, thơ mộng và mang tính trẻ thơ hoang đường. Nhưng nó gợi lên tâm tình đầm ấm trong một mái nhà, tuy nghèo hèn đơn sơ, nhưng là quê hương tổ ấm cho con người.
Rơm cỏ lót cho Hài nhi nằm êm ấm trong máng cỏ cũng là sứ điệp nhắn gửi: Hang đá máng cỏ do con người chế biến làm ra và tâm hồn con người cũng có thể là nơi Chúa Giêsu sinh ra. Khi ta sống bác ái tình người, khi làm việc thiện hảo tốt lành cho người đồng loại.

Ngày nay, người dựng hang đá máng cỏ Chúa giáng sinh phần nào theo truyền thống hang đá Thánh Phanxicô Khó Khăn đã nghĩ làm ra.Nhưng vật liệu xây dựng khác nhau hoặc bằng gỗ, hoặc bằng giấy rồi sơn phết mầu xám của đá. Ngoài những bộ tượng giáng sinh đặt trong đó, đèn điện cũng được chăng mắc thêm vào tùy theo văn hóa, thẩm mỹ cùng lòng cung kính đạo đức của từng dân tộc thời đại.

NẾN GIÁNG SINH



Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến đêm Giáng Sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông mùa Giáng Sinh. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà để tượng trưng cho Ngôi Sao trên làng Bê-lem.
Có một huyền thoại khác kể rằng một bé trai nọ bị đi lạc đêm Giáng Sinh nhang nhờ ánh đèn nến nới cửa sổ phòng mẹ, đã tìm được lối về đến nhà.
Lại có một truyền thuyết khác kể rằng thánh Maria và Giu-se đêm Chúa Giáng Sinh đã tìm ra nơi trú ngụ nhờ lần theo ánh đèn hắt ra từ cửa nhỏ một cái chuồng bò lừa.
Ánh sáng của những ngọn nến có ý nghĩa là thắp sáng lên (light up) niềm hi vọng (hope), hòa bình (peace), tình yêu (love) và niềm vui (hapiness), chúng luôn soi sáng dẫn đường cho chúng ta bước qua những ngày u tối (show the pathway to safety).
Trong các buổi lễ Giáng Sinh, sẽ có 4 ngọn nến được thắp lên:
The Candle of Hope (Ngọn nến của Hi vọng)
The Candle of Peace (Ngọn nến của Hòa bình)
The Candle of Love (Ngọn nến của Tình yêu)
The Candle of Joy (Ngọn nến của Niềm Vui)
Và ngọn nến thứ 5 tượng trưng cho ngày sinh của Chúa.

BỮA ĂN REVEILLON



Tại Alsace, Pháp, bữa ăn này phải gồm có tam hành là thủy (cá chép, con hàu), không khí (gà tây hay ngỗng) và mộc (thịt heo). Tập tục ăn gà tây là do thủy thủ của nhà thám hiểm Christophe Colombo du nhập từ Mexico.


Sưu tầm

Chủ Nhật, 12 tháng 12, 2010

LỄ GIÁNG SINH TRONG PHONG TỤC VÀ VĂN HÓA BA LAN



Hàng năm cứ vào những ngày cuối năm dương lịch, mọi người trên thế giới đều hướng về lễ Giáng Sinh, lễ này được coi như một sự kiện trọng đại nhất trong lịch sử nhân loại. Và biến cố lịch sử này đã được mọi người mặc nhiên công nhận như một cái mốc thời gian, để tính ngày giờ năm tháng cho tất cả các biến cố lớn nhỏ xảy ra trên thế giới cũng như trong cuộc sống riêng tư mỗi người.
Mừng Chúa Giáng Sinh, tiếng Ba Lan gọi là BOŻE NARODZENIE, lễ này được coi là một đại lễ trong năm và được cử hành vào ngày 25/12 hằng năm. Đối với người Ba Lan, lễ Giáng Sinh chiếm một chỗ đặc biệt trong truyền thống lễ hội của họ. Đặc biệt đêm Vọng giáng sinh, là đêm đẹp nhất, huyền nhiệm nhất trong mọi đêm. Người Ba Lan tổ chức đêm Vọng giáng sinh khá đặc biệt, trong quá khứ cũng như thời hiện tại.
Lễ Giáng Sinh được người Ba Lan chuẩn bị trước cả vài tuần, nhà cửa được tổng vệ sinh, trang hoàng, và mua sắm là điều không thể thiếu. Tất cả các cửa hàng, siêu thị tấp nấp người đến mua sắm. Thiệp giáng sinh được gởi đến cho nhau, cho người thân, họ hàng và bạn bè thân thiết với những lời chúc tốt đẹp nhất. Tất cả như là dấu chỉ để nhớ đến nhau.
Ngày trước đêm Vọng giáng sinh là một ngày không như thường lệ, không giống như mọi đêm khác. Bầu khí khác hẳn, trong bầu khí chờ đợi, đón mừng Con Chúa giáng trần. Vọng giáng sinh, tiếng Ba Lan gọi là WIGILIA, từ này bắt nguồn từ nguyên ngữ la tinh, có nghĩa là canh thức hay là đêm vọng. Đêm mà trước ngày lễ trọng, các tín hữu chuẩn bị bằng việc canh thức, cầu nguyện. Tập tục này bắt nguồn từ thời Giáo Hội sơ khai, đặc biệt là đêm Vọng Phục sinh, Giáng sinh và các tối thứ bảy. Tại Ba Lan, mãi đến thế kỷ thứ XVII Vọng giáng sinh, mới được lưu truyền. Vào đêm này, tất cả các thành viên trong gia đình sum họp nhau. Đây là dịp đặc biệt trong năm, mà mỗi thành viên dù đi làm xa, bận rộn ở chố nào, đều phải trở về gia đình nếu có thể được. Trong bầu khí gia đình, mọi người tụ họp quanh bàn ăn, cùng chúc nhau những điều tốt đẹp nhất, dùng bữa tối với những món ăn truyền thống, rồi hát thánh ca giáng sinh. Ngoài những người thân, họ hàng, người người cô thế, cô thân cũng được mời đến. Vọng giáng sinh cũng được gọi là đêm của gia đình.

CHỖ TRỐNG NƠI BÀN ĂN

Một phong tục khá phổ biến và được biết đến, đó là dành chổ trống nơi bàn ăn trong đêm này. Thật khó để xác định, phong tục này có từ khi nào, những mãi đến hôm nay nó vẫn được giữ một chỗ không thể thiếu trong phong tục ba lan. Chỗ trống này dành cho những vị khách, có thể là những người không mời mà đến. Nhà văn Zbigniew Kossak viết rằng „chỗ trống dành cho bất cứ ai đến nhà vào đêm vọng này, thì coi họ như người anh em”. Dành chỗ trống nơi bàn ăn, cũng là dịp để nhớ đến những người thân không thể mừng lễ chung với nhau, hay là nhớ đến những người quá cố trong gia đình.

CHIA NHAU BÁNH THÁNH



Quan trọng, và cảm động nhất trong giờ phút Vọng giáng sinh là phong tục chia nhau bánh thánh, xin lỗi nhau và chúc những gì tốt đẹp nhất. Lời chúc phổ biến nhất mà ai cũng biết đến đó là: „Wszystkiego najlepszego, hay Wesołych Świąt” nghĩa là chúc mọi điều tốt đẹp nhất, hay  mừng lễ vui vẻ.  Bánh thánh được các linh mục làm phép trước khi chia nhau, hình thức và nguyên liệu giống như bánh lễ dùng trong nhà thờ. Bánh này cũng được gởi đến những người thân vắng nhà. Tên gọi của nó gọi là „opłatek” nghĩa là trao tặng. Phong tục này bắt nguồn từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo, như là cử chỉ nhớ lại Đêm Vượt Qua của Chúa Giêsu. Và cho đến nay, nó vẫn còn giữ tại Ba Lan vào mỗi đêm Vọng giáng sinh. Đối với trẻ em, có lẽ đây là đêm đẹp nhất trong năm, được ăn mặc những bồ đồ đẹp nhất, hòa với không khí huyền ảo và màu sắc.

CÓ BAO NHIÊU MÓN ĂN TRONG ĐÊM NÀY?


Theo truyền thống, các món ăn trong đêm này nên chuẩn bị theo số lẻ. Trong từ điển ngữ học Ba lan, Aleksander Bruckner viết rằng: „đêm vọng giáng sinh nơi thôn quê thông thường chuẩn bị các món ăn theo số lẻ: 5, 7, 9, 11; số 7 tượng trưng cho 7 ngày trong tuần, số 9 tượng trưng cho chín phẩm thiên thần… được phép làm 12 món biểu tượng cho 12 thánh tông đồ”. Số người ăn cũng phải được tính đến, nên là số chẵn, tránh số 13, vì là số không may mắn. Số này nhắc đến Tôma Ít-ca-ri-ốt trong Bữa tối Vượt Qua đã phản bội Chúa. Món khai vị sẽ là món súp nấm, súp cá, súp trái hạnh đào, súp củ cải đỏ. Sau đó là món cá, được chế biến theo nhiều kiểu khác nhau. Vào đêm Vọng giáng sinh, thịt không được dùng đến, vì là đêm chờ Chúa đến, phải ăn chay. Món chính sẽ là món mì ống và…các món tiếp đến.


KOLĘDA

Nói đến lễ Giáng sinh, ta không thể không nhắc đến các bài hát thánh ca giáng sinh. Tiếng Ba lan gọi là Kolęda, từ này có nguồn gốc từ tiếng la tinh „calendae” nghĩa là ngày đầu tiên của mỗi tháng trong niên lịch La mã.
Kolęda có hai nghĩa; nghĩa đầu tiên là bát hát thánh ca giáng sinh; nghĩa thứ hai là viếng thăm mục vụ của linh mục quản xứ, hay linh mục phó xứ đến từng gia đình trong xứ đạo trong suốt mùa giáng sinh. Thật khó mà xác định truyền thống này lần đầu tiên đến Ba Lan từ khi này. Có thể là từ thế kỷ XIII, khi các cha dòng Phanxicô đặt chân đến Ba Lan.
Trong đêm Vọng giáng sinh, người Ba Lan cùng nhau hát những bài thánh ca giáng sinh tại gia đình. Từ lâu phong tục này đã phổ biển trên toàn lãnh thổ Ba Lan. Các bài hát thánh ca giáng sinh cổ nhất, nổi tiếng nhất đã xuất hiện từ thế kỷ XV, phổ biến nhất trong những bài đó là bài „Anioł pasterzom mówił” „thiên thần báo tin cho các mục đồng”. Rồi kế đến các bài nổi tiếng ở thế XVII, XVIII mà đến nay vẫn còn hát đến đó là: „Wśród nocnej ciszy” „giữa đêm thanh vắng”, hay là „Bóg się rodzi” „Chúa sinh ra đời” và các bài kế tiếp sau này. Với các ca từ và làn điệu đem đến cho người tín hữu thêm phần thánh thiện và sống sắt. Thánh ca giáng sinh được mọi người yêu thích, từ người già đến con nít, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và cho đến nay kolęda vẫn còn giữ một vị trí quan trọng trong đời sống của người Ba Lan . Cũng có thể bắt gặp, nghe được những bài hát thánh ca không chỉ nơi thánh đường, nhà nguyện, gia đình nhưng còn những nơi công cộng qua những buổi hòa nhạc, và trên phương tiện truyền thông.
Thánh ca giáng sinh ba lan, có nội dung đặc biệt về trẻ thơ Hài Đồng Giêsu. Dù là Thiên Chúa, nhưng vì yêu nhân loại, Ngài đã hạ mình, trở nên phàm nhân để cứu độ con người. Người Ba Lan hát thánh ca giáng sinh từ lúc bắt đầu lễ Giáng sinh cho đến  ngày mùng 2 tháng 2, lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thánh.

PASTERKA

Truyền thống phong tục của ngày và đêm Vọng giáng sinh là thời gian dài nhất, được kết thúc với thánh lễ nửa đêm nơi nhà thờ. Mọi tín hữu đổ về các ngôi thánh đường để dự lễ. Thánh lễ nữa đêm tại Ba Lan được coi là đại lễ trong năm. Tiếng Ba lan gọi là Pasterka. Chuông nhà thờ được gióng lên với bài hát GloriaVinh danh Thiên Chúa trên trời…”. Lễ nữa đêm đã có từ thời Trung cổ và kéo dài cho đến thời nay. Không chỉ dự lễ nửa đêm, người Ba Lan còn có truyền thống hát thánh ca giáng sinh vào các buổi chiều tại nhà thờ với lòng sùng kính Chúa Hài Đồng Giêsu. Đây là một truyền thống sống động, mà cho đến nay nó vẫn còn giữ được vị trí quan trọng, nơi thôn quê cũng như thành thị.

Kính chúc quí vị mùa giáng sinh
AN LÀNH và THÁNH ĐỨC
trong CHÚA HÀI ĐỒNG GIÊSU!

  Vũ SVD
Giáng sinh 2010